Nhà sản xuất
Celltrion, Inc.
Nhà phân phối
Viet Phap
Thành phần
Mỗi lọ: Infliximab 100mg.
Infliximab là một kháng thể đơn dòng mô hình người-chuột IgG1 được hình thành bởi quá trình tái tổ hợp DNA trên tế bào lai đơn dòng ở chuột.
Dược lực học
Nhóm dược lý điều trị: ức chế miễn dịch, chất ức chế TNF-α.
Mã ATC: L04AB02.
Remsima là sản phẩm tương tự sinh học.
Infliximab là một kháng thể đơn dòng mô hình người-chuột có ái lực cao với cả 2 dạng hòa tan và xuyên màng của yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α) nhưng không gắn với lymphotoxin α (TNFβ).
Cơ chế hoạt động
Infliximab ức chế hoạt động chức năng của TNF-α trong hàng loạt các test sinh học in vitro. Infliximab ngăn ngừa bệnh trên chuột biến đổi gen mắc viêm đa khớp như là hậu quả của sự thể hiện có tính chất cấu trúc của TNF-α người và được chỉ định sau khi khởi phát bệnh, cho phép các khớp bị bào mòn lành lại. Trên nghiên cứu in vivo, infliximab nhanh chóng tạo thành phức hợp ổn định với TNF-α của người, song song với quá trình mất hoạt tính sinh học của TNF-α.
Nồng độ các TNF-α tăng lên ở các khớp của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và có liên quan tới việc tăng tiến triển bệnh. Trong bệnh lý viêm khớp dạng thấp, điều trị với infliximab làm giảm xâm lấn các tế bào viêm vào các vùng bị viêm trong khớp cũng như sự biểu lộ hoạt động chức năng của các phân tử trung gian cho bám dính tế bào, hóa ứng động và giáng hóa mô. Sau khi điều trị với infliximab, nồng độ interleukin-6 (IL-6) và CRP trong huyết thanh của bệnh nhân giảm so với giá trị ban đầu. Hơn nữa các bạch cầu lympho trong máu ngoại vi không thấy có sự giảm có ý nghĩa về số lượng hoặc đáp ứng tăng trưởng đối với sự kích thích phân bào in vitro khi so sánh với các tế bào từ bệnh nhân không điều trị.
Trên bệnh nhân vảy nến, điều trị với infliximab dẫn tới giảm viêm biểu mô và bình thường hóa sự biệt hóa các tế bào sừng ở các mảng vảy nến.
Trên bệnh nhân viêm khớp vảy nến, điều trị với infliximab trong thời gian ngắn có thể giúp giảm số lượng các tế bào T và các mạch máu các hoạt dịch và vảy nến trên da.
Đánh giá mô học sinh thiết ở ruột thu được trước và 4 tuần sau khi truyền infliximab, cho thấy giảm đáng kể hàm lượng TNF-α phát hiện được. Điều trị infliximab cho bệnh nhân bệnh Crohn cũng có liên quan với giảm đáng kể đến nồng độ các chất đánh dấu viêm trong huyết thanh, CRP. Tổng số lượng tế bào bạch cầu ngoại vi gây ảnh hưởng tối thiểu ở những bệnh nhân được điều trị bằng infliximab, mặc dù có những thay đổi trong tế bào lympho, bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính phản ánh những thay đổi so với phạm vi bình thường. Tế bào đơn nhân của máu ngoại vi (PBMC) từ các bệnh nhân được điều trị bằng infliximab cho thấy không hề suy giảm đáp ứng với các kích thích tăng sinh so với bệnh nhân không được điều trị, và không quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong sản xuất cytokine bởi PBMC kích thích sau khi điều trị với infliximab. Phân tích của phiến lá tế bào đơn nhân thu được bằng cách sinh thiết niêm mạc ruột cho thấy điều trị infliximab làm giảm số lượng tế bào có khả năng tác động lên TNF-α và interferon γ. Nghiên cứu mô học bổ sung được cung cấp bằng chứng cho thấy điều trị bằng infliximab làm giảm sự xâm nhập của các tế bào viêm vào các khu vực bị ảnh hưởng của ruột và sự hiện diện của các dấu hiệu viêm nhiễm tại các vị trí này. Nghiên cứu nội soi niêm mạc ruột đã cho thấy bằng chứng về lành niêm mạc ở những bệnh nhân được điều trị bằng infliximab.
An toàn và hiệu quả lâm sàng
Bệnh viêm khớp dạng thấp ở người lớn
Tính hiệu quả của infliximab được đánh giá qua 2 thử nghiệm lâm sàng chủ yếu đa trung tâm, ngẫu nhiên, điểm mù đôi là ATTRACT và ASPIRE. Trong cả hai nghiên cứu, bệnh nhân được cho phép phối hợp liều ổn định của acid folic, corticoid đường uống (<10mg/ngày) và/hoặc NSAID.
Hiệu quả ban đầu thu được là việc làm giảm các triệu chứng và dấu hiệu của các chỉ số viêm khớp theo ACR (ACR20 trong nghiên cứu ATTRACT và mức ranh giới ACR-N trong nghiên cứu ASPIRE), khả năng phòng ngừa tổn thương tổ chức khớp và cải thiện chức năng sinh lý của khớp. Việc giảm các dấu hiệu và triệu chứng được định nghĩa khi đạt được tối thiểu 20% sự cải thiện (ACR20) trong cả các tổ chức mô mềm và mô liên kết sưng tấy, nghĩa là 3 trong số 5 chỉ tiêu sau: (1) đánh giá bởi chuyên gia theo chuẩn toàn cầu, (2) đánh giá bởi bệnh nhân theo chuẩn toàn cầu, (3) thăm khám chức năng/mức độ tàn tật, (4) ACR-N được dùng với cùng các chỉ tiêu đánh giá như ACR20, tính toán dựa trên tỷ lệ phần trăm cải thiện thấp nhất của các mô liên kết sưng tấy, đánh giá các mô mềm liên kết, và điểm trung bình của 5 chỉ tiêu còn lại trong đáp ứng ACR. Sự tổn thương cấu trúc của các khớp (ăn mòn mô và thu hẹp các khoang giữa các khớp) ở cả tay và chân người bệnh được đánh giá bằng sự thay đổi từ mức ban đầu theo thang điểm van der Heijde-modified Sharp (0- 440). Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe (HAQ; từ 0-3) được sử dụng để đánh giá mức thay đổi trung bình của người bệnh từ chỉ số ban đầu theo thời gian, trên chỉ số chức năng sinh lý.
Nghiên cứu ATTRACT đánh giá đáp ứng tại các thời điểm tuần thứ 30, 54 và 102 trong nghiên cứu có đối chứng, có kiểm soát trên 428 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp thể hoạt động mà đã được điều trị với methotrexate. Khoảng 50% số bệnh nhân được xếp vào nhóm chức năng III. Người bệnh được chỉ định dùng giả dược, hoặc 3 mg/kg hay 10mg/kg infliximab ở các thời điểm tuần thứ 0,2 và 6, sau đó tiếp tục sau mỗi 4 hoặc 8 tuần. Các bệnh nhân được chỉ định mức liều ổn định methotrexate (trung bình 15 mg/tuần) trong 6 tháng trước khi tham gia nghiên cứu và tiếp tục duy trì mức liều này trong thời gian nghiên cứu.
Kết quả thu được tại tuần thứ 54 (ACR20, theo van der Heijde-modified Sharp và Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe) được thể hiện trong bảng 1. Mức đáp ứng lâm sàng cao hơn (ACR50 và ACR70) được quan sát thấy trong tất cả các nhóm có sử dụng infliximab ở các tuần thứ 30 và 54 khi so với nhóm chỉ dùng methotrexate.
Tỉ lệ giảm sự tiến triển của tình trạng tổn thương chức năng khớp (xói mòn và thu hẹp khoang khớp) đã được quan sát thấy trong tất cả các nhóm sử dụng infliximab ở tuần thứ 54 (Bảng 1).
Các kết quả quan sát được tại thời điểm tuần thứ 54 được duy trì cho đến tuần 102. Do số lượng bệnh nhân rút khỏi nghiên cứu, không thể kết luận được mức độ khác biệt trong hiệu quả điều trị giữa nhóm sử dụng infliximab và nhóm chỉ dùng methotrexate đơn độc.
Thử nghiệm ASPIRE đánh giá các đáp ứng tại tuần 54 trên 1004 bệnh nhân mới dùng methotrexate với viêm đa khớp dạng thấp tiến triển sớm (thời gian mắc bệnh ≤3 năm, trung vị 0,6 năm), viêm khớp dạng thấp thể hoạt động (chỉ số khớp sưng và đau trung bình lần lượt là 19 và 31). Tất cả các bệnh nhân đều dùng methotrexate (liều tối đa tới 20 mg/tuần tại tuần 8) và một trong các lựa chọn sau: giả dược, infliximab với mức liều 3 mg/kg hoặc 6 mg/kg tại tuần 0, 2, 6 và sau đó mỗi 8 tuần.
Sau 54 tuần điều trị, cả 2 mức liều infliximab kết hợp methotrexate đều mang lại sự cải thiện lớn hơn ý nghĩa về các dấu hiệu và triệu chứng so với nhóm dùng methotrexate đơn thuần khi xác định bằng tỷ lệ bệnh nhân đạt đáp ứng ACR20, ACR50 và ACR70.
Trong nghiên cứu này, hơn 90% số bệnh nhân có ít nhất 2 lần kiểm tra đánh giá bằng Xquang. Tỷ lệ giảm các tiến triển tổn thương cấu trúc khớp quan sát được tại tuần thứ 30 và 54 của nhóm dùng infliximab + methotrexate so với nhóm dùng methotrexate đơn độc. Xem bảng 2.
Các dữ liệu minh chứng cho mức liều chuẩn độ trong viêm khớp dạng thấp theo kết quả của thử nghiệm ATTRACT, ASPIRE và nghiên cứu START. Trong nghiên cứu START, một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, điểm mù đôi, 3 hướng, song song đánh giá về độ an toàn. Trong một hướng của nghiên cứu (nhóm 2, n=329), bệnh nhân có đáp ứng chưa đầy đủ với điều trị được sử dụng mức liều chuẩn độ với khoảng cách mỗi 1,5mg/kg bắt đầu từ 3 mg/kg đến 9 mg/kg. Đa số người bệnh (67%) không cần thêm liều chuẩn độ. Một số bệnh nhân thì cần thêm 1 liều chuẩn độ, trong đó 80% đạt được đáp ứng lâm sàng và đa số trong nhóm này (64%) chỉ cần thêm 1 mức liều 1,5mg/kg.
Bệnh Crohn ở người trưởng thành
Khởi đầu điều trị trên các bệnh nhân Crohn từ mức trung bình đến nặng thể hoạt động
Hiệu quả của liều đơn đã được đánh giá trên 108 bệnh nhân Crohn thể hoạt động (Chỉ số đánh giá tình trạng hoạt động của bệnh Crohn (CDAI) ≥220 ≤400) trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, điểm mù đôi, có kiểm soát với giả dược và đáp ứng theo liều. Trong tổng số 108 bệnh nhân, có 27 bệnh nhân được điều trị với mức liều khuyến cáo là 5 mg/kg. Tất cả các bệnh nhân đều nhận được đáp ứng chưa đầy đủ ở các giai đoạn điều trị quy ước trước đó. Đồng thời vẫn cho phép sử dụng các mức liều ổn định trong các liệu pháp điều trị quy ước và 92% trong số này tiếp tục nhận các liệu pháp này.
Kết quả ban đầu thu được là tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng, được định nghĩa khi có chỉ số CDAI > 70 điểm so với mức cơ bản trong tuần đánh giá thứ 4 và không tăng việc dùng thuốc hoặc phẫu thuật trong điều trị Crohn. Người bệnh có đáp ứng ở tuần thứ 4 được theo dõi đến tuần thứ 12 của nghiên cứu.
Kết quả thu được thứ 2 là tỉ lệ bệnh nhân có các thuyên giảm trên lâm sàng ở tuần thứ 4 (CDAI < 150) và đáp ứng lâm sàng sau đó.
Tại tuần thứ 4, sau khi điều trị với 1 liều đơn, 22/27 bệnh nhân (81%) được nhận mức liều 5 mg/kg infliximab đạt được đáp ứng trên lâm sàng so với 4/25 bệnh nhân (16%) ở nhóm dùng giả dược (p<0,001). Cũng ở tuần thứ 4, 13/27 bệnh nhân ở nhóm điều trị infliximab đạt được thuyên giảm trên lâm sàng (CDAI <150) so với 1/25 bệnh nhân ở nhóm dùng giả dược. Quan sát thấy có đáp ứng trong vòng 2 tuần, với mức đáp ứng cao nhất ở tuần thứ 4. Ở thời điểm quan sát cuối (tuần thứ 12), 13/27 bệnh nhân (48%) trong nhóm điều trị với infliximab vẫn còn có đáp ứng.
Điều trị duy trì trên các bệnh nhân Crohn từ mức trung bình đến nặng thể hoạt động
Hiệu quả của các điều trị nhắc lại với infliximab được nghiên cứu trong 1 nghiên cứu lâm sàng kéo dài 1 năm (ACCENT I). Có tổng số 573 bệnh nhân bệnh Crohn thể hoạt động từ mức trung bình đến nặng (CDAI ≥220, ≤400) nhận được 1 liều đơn infliximab 5 mg/kg ở các tuần 0. 178/580 bệnh nhân của nghiên cứu (chiếm 30,7%) được đánh giá là có mức độ bệnh nghiêm trọng (CDAI >300 và điều trị phối hợp với corticoid và/hoặc thuốc ức chế miễn dịch) tương ứng với nhóm bệnh nhân chỉ định (xem mục Chỉ định). Tại tuần thứ 2, tất cả các bệnh nhân được đánh giá đáp ứng lâm sàng và ngẫu nhiên nhận 1 trong các mức liều 3 mg/kg, điều trị duy trì với giả dược và điều trị duy trì với 5 mg/kg. 10mg/kg. Cả 3 nhóm nhận được liều duy trì với infliximab ở tuần thứ 2, 6 và sau đó mỗi 8 tuần.
335 trong tổng số 573 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên (58%) đạt được đáp ứng lâm sàng ở tuần 2. Các bệnh nhân này được xếp vào nhóm đáp ứng Tuần 2 và được chọn vào một phân tích sơ bộ (xem bảng 3). Trong số bệnh nhân của nhóm không đáp ứng ở tuần 2, 32% số bệnh nhân (26/81) nằm trong nhóm dùng giả dược để điều trị duy trì, và 42% (68/163) nằm trong số nhóm dùng infliximab đạt được đáp ứng lâm sàng ở tuần thứ 6. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm về số đáp ứng muộn sau đó.
Bắt đầu tuần thứ 14, bệnh nhân có đáp ứng với điều trị, nhưng sau đó mất đi các tác dụng lâm sàng, được chỉ định một liều infliximab cao hơn 5 mg/kg so với mức liều họ đã được chỉ định ngẫu nhiên. 89% (50/56) trong số các bệnh nhân mất đi đáp ứng lâm sàng với liều duy trì infliximab 5 mg/kg sau tuần thứ 14 thu được đáp ứng khi điều trị với infliximab 10 mg/kg.
Sự cải thiện về chất lượng sống được đánh giá, sự giảm các yếu tố liên quan đến điều trị tại bệnh viện có liên quan đến bệnh lý này cũng như điều trị với corticosteroid được dùng để quan sát nhóm điều trị duy trì với infliximab so sánh với nhóm dùng giả dược duy trì ở các tuần 30 và 54.
Việc đánh giá điều trị infliximab có kèm/hoặc không kèm theo AZA được tiến hành trong 1 thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, so sánh chủ động (SONIC) trên 508 bệnh nhân trưởng thành bệnh Crohn từ vừa đến nặng (CDAI ≥220 ≤450), các bệnh nhân này chưa điều trị với các sinh phẩm hoặc thuốc ức chế miễn dịch và có thời gian mắc bệnh trung bình là 2,3 năm. Ban đầu, 27,4% số bệnh nhân đang dùng corticoid toàn thân, 14,2% bệnh nhân đang dùng budesonide, và 54,3% bệnh nhân đang dùng 5-ASA. Bệnh nhân được ngẫu nhiên chỉ định liệu pháp AZA đơn độc, infliximab đơn độc hoặc infliximab + AZA. Liều infliximab được chỉ định là 5 mg/kg ở các tuần 0, 2, 6, và nhắc lại sau mỗi 8 tuần. Mức liều AZA là 2,5 mg/kg hàng ngày.
Kết quả thu được ban đầu của nghiên cứu là mức thuyên giảm trên lâm sàng ở tuần 26 trong nhóm không dùng corticosteroid, được ghi nhận trên các bệnh nhân có chỉ số (CDAI <150) trong ít nhất 3 tuần, không uống corticosteroid toàn thân (prednisone hoặc thuốc tương đương) hoặc dùng budesonide với liều >6 mg/ngày. Kết quả thu được ở bảng 4. Tỷ lệ bệnh nhân lành niêm mạc ở tuần 26 được quan sát là lớn hơn đáng kể ở nhóm dùng infliximab + AZA phối hợp (43,9%, p<0,001) và nhóm dùng infliximab đơn độc (30,1%, p=0,023) so với nhóm chỉ dùng AZA (16,5%).
Cũng quan sát được xu hướng hiệu quả như trên trong nhóm không sử dụng corticosteroid ở tuần thứ 50. Hơn nữa, các cải thiện về chất lượng sống được đánh giá bằng IBDQ cũng quan sát được khi điều trị với infliximab.
Điều trị cảm ứng cho bệnh nhân Crohn có lỗ rò thể hoạt động
Hiệu quả lâm sàng được đánh giá thông qua một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược trên 94 bệnh nhân Crohn có lỗ rò thể hoạt động mà đã có lỗ rò ở tá tràng tổi thiểu 3 tháng. 31 bệnh nhân trong số này được điều trị với infliximab 5 mg/kg. Khoảng 93% bệnh nhân đã điều trị với kháng sinh hoặc thuốc ức chế miễn dịch trước đó.
Cho phép người bệnh dùng đồng thời các liều ổn định của các liệu pháp quy ước, 83% số bệnh nhân tiếp tục với ít nhất 1 trong số các liệu pháp trên. Bệnh nhân được chỉ định với 1 trong 3 liều hoặc là giả dược, hoặc infliximab ở các tuần 0, 2 và 6. Bệnh nhân được theo dõi cho tới tuần 26. Thông số đánh giá đầu tiên là tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng, định nghĩa là giảm ≥50% so với giá trị ban đầu về số lượng lỗ rò dẫn lưu tại ít nhất 2 lần thăm khám kế tiếp nhau (mỗi 4 tuần) mà không có tăng sử dụng thuốc hoặc phẫu thuật cho bệnh Crohn.
68% (21/31) bệnh nhân trong nhóm điều trị infliximab liều 5mg/kg đạt được đáp ứng lâm sàng so với 26% (8/31) bệnh nhân ở nhóm dùng giả dược (p=0,002). Thời gian trung bình để bắt đầu có đáp ứng trong nhóm điều trị infliximab là 2 tuần. Thời gian đáp ứng trung bình là 12 tuần. Thêm nữa, đóng toàn bộ lỗ rò đạt được ở 55% bệnh nhân điều trị infliximab so với 13% bệnh nhân điều trị giả dược (p=0,001).
Điều trị duy trì cho bệnh nhân Crohn có lỗ rò thể hoạt động
Hiệu quả lâm sàng của việc điều trị nhắc lại với infliximab trên các bệnh nhân Crohn có lỗ rò được nghiên cứu trong 1 thử nghiệm kéo dài 1 năm, (ACCENT II). Toàn bộ 306 bệnh nhân được nhận 3 liều infliximab 5 mg/kg ở các tuần 0, 2 và 6. Ban đầu, 87% số bệnh nhân có lỗ rò quanh hậu môn, 14% bệnh nhân có lỗ rò bất thường, 9% có lỗ rò ở trực tràng. Chỉ số CDAI trung bình là 180. Ở tuần thứ 14, 282 bệnh nhân được đánh giá có đáp ứng lâm sàng và được nhận ngẫu nhiên giả dược hoặc 5 mg/kg infliximab trong mỗi 8 tuần cho tới tuần thứ 46.
Nhóm bệnh nhân có đáp ứng ở tuần thứ 14 (195/282 bệnh nhân) được đánh giá phân tích về kết quả thu được ban đầu, là chỉ số thời gian ngẫu nhiên cho đến khi mất đáp ứng (xem bảng 5). Cho phép bệnh nhân điều trị với corticosteroid giảm dần sau tuần thứ 6.
Bắt đầu từ tuần thứ 22, các bệnh nhân có đáp ứng với điều trị và sau đó mất đáp ứng được chọn lọc để đổi qua điều trị lại trong mỗi 8 tuần với 1 liều thêm infliximab 5 mg/kg so với mức liều họ đã nhận ngẫu nhiên ban đầu. Trong số các bệnh nhân đã nhận liều infliximab 5 mg/kg được chuyển qua điều trị lại do mất đáp ứng về lỗ rò sau tuần thứ 22,57% bệnh nhân (12/21) có đáp ứng với điều trị lại khi chỉ định infliximab 10 mg/kg mỗi 8 tuần.
Không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm dùng giả dược và infliximab về tỉ lệ bệnh nhân đóng được các lỗ rò liên tục ở thời điểm tuần thứ 54, với các triệu chứng như viêm ruột thẳng, áp xe, viêm đường tiết niệu hoặc có thêm lỗ rò mới trong quá trình điều trị nghiên cứu.
Liệu pháp điều trị duy trì với infliximab sau mỗi 8 tuần giảm đáng kể thời gian điều trị tại bệnh viện và phẫu thuật có liên quan đến bệnh lý này so với nhóm dùng giả dược. Hơn nữa, cũng quan sát được việc giảm sử dụng corticoid và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Viêm loét tá tràng ở người trưởng thành
Tính an toàn và hiệu quả của infliximab được đánh giá trên 2 nghiên cứu ngẫu nhiên (ACT 1 và ACT 2), nghiên cứu điểm mù đôi, có kiểm soát giả dược trên các bệnh nhân trưởng thành viêm loét tá tràng ở mức vừa và nặng (điểm số Mayo 6 - 12; điểm số Nội soi>2) thiếu đáp ứng đầy đủ với các liệu pháp quy ước như corticosteroid đường uống, aminosalicylat và/hoặc chất điều chỉnh miễn dịch (6-MP, AZA)]. Bệnh nhân được cho phép phối hợp với mức liều ổn định của aminosalicylat đường uống, các corticosteroid và/hoặc tác nhân điều chỉnh miễn dịch. Trong cả hai nghiên cứu, bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên giả dược hoặc 5 mg/kg infliximab, hoặc 10 mg/kg infliximab ở các tuần 0, 2, 6, 14 và 22, trong nghiên cứu ACT 1 ở các tuần 30, 38 và 46. Cho phép giảm liều corticosteroid từ sau tuần thứ 8. Xem bảng 6.
Hiệu quả của infliximab được đánh giá cho đến tuần thứ 54 trong nghiên cứu ACT 1.
Ở tuần 54, 44,9% bệnh nhân trong nhóm điều trị phối hợp infliximab có đáp ứng lâm sàng so với 19,8% bệnh nhân ở nhóm giả dược (p<0,001). Tỉ lệ thuyên giảm trên lâm sàng và lành mô liên kết cũng lớn hơn ở nhóm điều trị phối hợp với infliximab khi so với nhóm giả dược tại tuần 54 (lần lượt 34,6% so với 16,5%, p<0,001 và 46,1% so với 18,2%, p<0,001). Tỷ lệ bệnh nhân thu được đáp ứng duy trì và thuyên giảm liên tục cho đến tuần thứ 54 lớn hơn trong nhóm điều trị phối hợp với infliximab khi so với nhóm phối hợp với giả dược (lần lượt 37,9% so với 14,0%, p<0,001; và 20,2% so với 6,6%, p<0,001).
Tỷ lệ lớn hơn các bệnh nhân trong nhóm điều trị phối hợp với infliximab có thể dừng sử dụng corticosteroid trong khi vẫn duy trì thuyên giảm trên lâm sàng khi so với nhóm chứng ở cả tuần thứ 30 (22,3% so với 7,2%, p <0,001, trong nghiên cứu ACT 1 & ACT 2) và tuần 54 (21,0% so với 8,9%, p=0,022, ACT 1).
Các dữ liệu phân tích trong nghiên cứu ACT 1 và ACT 2 cũng như các nghiên cứu kéo dài, được phân tích từ mức cơ bản đến tuần thứ 54 đã cho thấy sự giảm các yếu tố điều trị nội trú liên quan đến viêm loét tá tràng và giảm các thủ thuật phẫu thuật trên nhóm điều trị với infliximab. Số các điều trị nội trú liên quan đến viêm loét tá tràng giảm đáng kể trong nhóm được chỉ định 5 và 10 mg/kg infliximab khi so với nhóm chứng (trung bình số điều trị nội trú/100 năm lần lượt là: 21 và 19 so với 40 trong nhóm dùng giả dược; p=0,019 và p=0,007). Số phẫu thuật liên quan đến viêm loét tá tràng cũng giảm ở nhóm điều trị với 5 và 10 mg/kg infliximab so với nhóm dùng giả dược (số phẫu thuật trung bình/100 năm của bệnh nhân: 22 và 19 so với 34; p=0,145 và p=0,022).
Tỷ lệ bệnh nhân có phẫu thuật cắt bỏ ruột kết trong suốt 54 tuần nghiên cứu sau lần truyền đầu tiên được thu thập và phân tích trong các nghiên cứu ACT 1 và ACT 2 và các nghiên cứu kéo dài sau đó. Có ít bệnh nhân phẫu thuật hơn ở nhóm điều trị với 5 mg/kg infliximab (28/242 chiếm 11,6%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê) và với 10 mg/kg infliximab (18/242 chiếm 7,4% [p=0,011]) so với nhóm dùng giả dược (36/244: 14,8%).
Tỷ lệ giảm phẫu thuật cắt ruột kết cũng được đưa ra nghiên cứu trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, điểm mù đôi khác (C0168Y06) trên bệnh nhân điều trị nội trú (n=45) có viêm loét tá tràng vừa đến nặng, là các bệnh nhân mà thất bại với liệu pháp truyền corticosteroid đồng thời cũng có nguy cơ phẫu thuật cao. Có sự giảm đáng kể số ca phẫu thuật trong vòng 3 tháng nghiên cứu trên những bệnh nhân được chỉ định l liều đơn 5 mg/kg infliximab so với nhóm chỉ dùng giả dược (lần lượt 29,2% so với 66,7%, p=0,017).
Trong hai nghiên cứu ACT 1 và ACT 2, người ta thấy điều trị với infliximab cải thiện nhiều chất lượng cuộc sống của người bệnh thông qua những chuyển biển đáng kể có ý nghĩa thống kê trên cả phương diện bệnh học, IBDQ, và qua các thăm dò SF-36.
Viêm cột sống dính khớp ở người lớn
Hiệu quả và an toàn của infliximab được đánh giá qua hai nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, có nhóm chứng ở những bệnh nhân viêm cột sống dính khớp thể hoạt động (Bệnh Bath cột sống cứng khớp - chỉ số [BASDAI]> 4 và đau cột sống > 4 trên thang điểm từ 1-10).
Trong nghiên cứu đầu tiên (P01522), pha nghiên cứu trong giai đoạn 3 tháng mù đôi, 70 bệnh nhân được dùng hoặc 5 mg/kg infliximab hoặc giả dược ở các tuần 0, 2, 6 (35 bệnh nhân mỗi nhóm). Ở tuần thứ 12, bệnh nhân dùng giả dược đã được chuyển sang dùng infliximab 5 mg/kg mỗi 6 tuần cho đến tuần 54. Sau năm đầu tiên của nghiên cứu này, 53 bệnh nhân tiếp tục vào một nghiên cứu nhãn mở cho tới tuần 102.
Trong các nghiên cứu lâm sàng thứ hai (ASSERT), 279 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để nhận hoặc giả dược (Nhóm 1, n = 78) hoặc 5 mg/kg infliximab. (Nhóm 2, n = 201) ở tuần thứ 0, 2 và 6 và mỗi 6 tuần cho đến tuần 24. Sau đó, tất cả các đối tượng nghiên cứu tiếp tục chỉ định infliximab mỗi 6 tuần đến tuần 96. Nhóm 1 được chỉ định 5 mg/kg infliximab. Ở nhóm 2, bắt đầu từ tuần 36 truyền dịch, bệnh nhân có BASDAI > 3 ở 2 lần thăm khám liên tiếp, nhận được 7,5 mg/kg infliximab mỗi 6 tuần sau đó cho đến tuần 96.
Trong nghiên cứu ASSERT, cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng được quan sát thấy vào đầu tuần 2. Ở tuần 24, số lượng người đáp ứng có ASAS 20 là 15/78 (19%) trong nhóm dùng giả dược, và 123/201 (61%) trong các nhóm 5 mg/kg infliximab (p <0,001). Có 95 đối tượng từ nhóm 2 tiếp tục liều 5 mg/kg mỗi 6 tuần. Ở tuần 102 có 80 đối tượng vẫn đang điều trị infliximab và trong số đó có 71 (89%) người đáp ứng có ASAS 20.
Trong nghiên cứu P01522, sự cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng cũng được quan sát thấy vào đầu tuần 2. Ở tuần thứ 12, số lượng các bệnh nhân có BASDAI 50 đáp ứng là 3/35 (9%) trong nhóm dùng giả dược, và 20/35 (57%) trong nhóm dùng 5 mg/kg (p<0,01). Đã có 53 đối tượng nghiên cứu tiếp tục liều 5 mg/kg mỗi 6 tuần. Ở tuần 102 có 49 bệnh nhân vẫn đang điều trị với infliximab và trong số đó có 30 (61%) bệnh nhân có đáp ứng là BASDAl 50.
Trong cả hai nghiên cứu, chức năng thể chất và chất lượng cuộc sống được đo bằng BASFI và điểm sức khỏe thể chất theo SF-36 cũng đã được cải thiện đáng kể.
Viêm khớp vảy nến ở người lớn
Tính hiệu quả và an toàn đã được đánh giá trong hai nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, có kiểm soát giả dược ở những bệnh nhân viêm khớp vảy nến thể hoạt động.
Trong các nghiên cứu lâm sàng đầu tiên (IMPACT), hiệu quả và an toàn của infliximab đã được nghiên cứu trên 104 bệnh nhân viêm đa khớp vảy nển thể hoạt động. Trong giai đoạn pha nghiên cứu mù đôi 16 tuần, bệnh nhân được chỉ định 5 mg/kg infliximab hoặc giả dược ở tuần 0, 2, 6, và tuần 14 (52 bệnh nhân trong mỗi nhóm). Bắt đầu từ tuần 16, các bệnh nhân dùng giả dược được chuyển sang dùng infliximab và tất cả các bệnh nhân sau đó đã nhận được 5 mg/kg infliximab mỗi 8 tuần đến tuần 46. Sau năm đầu tiên của nghiên cứu này, 78 bệnh nhân tiếp tục vào một phần nghiên cứu mở rộng nhãn mở cho tới tuần 98.
Trong các nghiên cứu lâm sàng thứ hai (IMPACT 2), tính hiệu quả và an toàn của infliximab đã được nghiên cứu trên 200 bệnh nhân viêm khớp vảy nển hoạt động (> 5 khớp sưng lên và > 5 khớp đau). 46% bệnh nhân tiếp tục liều methotrexate ổn định (<25 mg/tuần). Trong giai đoạn pha nghiên cứu mù đôi 24 tuần, bệnh nhân được dùng 5 mg/kg infliximab hoặc giả dược ở tuần 0, 2, 6, 14, và 22 (100 bệnh nhân trong mỗi nhóm). Ở tuần thứ 16, 47 bệnh nhân dùng giả dược với <10% cải thiện so với ban đầu trên các khớp sưng và đau đã được chuyển sang khởi đầu với infliximab. Ở tuần 24, tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng giả dược chuyển qua infliximab. Dùng thuốc tiếp tục cho tất cả các bệnh nhân cho đến qua tuần 46.
Kết quả về tính hiệu quả quan trọng trong nghiên cứu IMPACT và IMPACT 2 được thể hiện trong Bảng 7 dưới đây:
Trong các nghiên cứu IMPACT và IMPACT 2, đáp ứng lâm sàng được quan sát từ thời điểm sớm ở tuần 2 và theo dõi cho đến lần lượt suốt tuần thứ 98 và 54. Hiệu quả lâm sàng được chứng minh khi điều trị kèm theo hoặc không với methotrexate. Việc giảm các thông số đặc trưng trong viêm khớp vảy nến ngoại vi thể hoạt động (chẳng hạn như số khớp sưng lên, số đau đớn/căng khớp, viêm ngón) đã được thấy ở những bệnh nhân được điều trị bằng infliximab.
Thay đổi trên kiểm tra Xquang được đánh giá trong nghiên cứu IMPACT 2. Phim chụp Xquang của bàn tay và bàn chân được thu thập ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu, ở tuần 24 và 54. Điều trị với infliximab làm giảm tỷ lệ tiến triển của tổn thương khớp ngoại vi so với điều trị với giả dược ở tuần 24 được đánh giá bằng sự thay đổi so với ban đầu trong tổng số điểm sửa đổi VDH-S (giá trị trung bình ± SD là 0,82 ± 2,62 ở nhóm giả dược so với - 0,70 ± 2,53 ở nhóm infliximab, p <0,001). Ở nhóm dùng infliximab, thay đổi trung bình trong tổng số điểm sửa đổi VDH-S vẫn dưới 0 ở tuần 54.
Bệnh nhân được điều trị bằng infliximab cho thấy sự cải thiện đáng kể về chức năng thể chất theo đánh giá HAQ. Cải thiện đáng kể chất lượng sức khỏe liên quan đến chất lượng cuộc sống cũng đã được chứng minh được đo bằng phần tổng điểm về thể chất và tinh thần theo SF-36 trong IMPACT 2.
Bệnh vảy nến ở người lớn
Hiệu quả của infliximab được đánh giá trong hai nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi: SPIRIT và EXPRESS. Bệnh nhân bệnh vẩy nến mảng bám trong cả hai nghiên cứu (Chỉ số diện tích cơ thể [BSA]> 10% và Vùng vảy nến và Chỉ số Mức độ nghiêm trọng [PASI]≥ 12). Tiêu chí chính trong cả hai nghiên cứu là phần trăm bệnh nhân đạt ≥ 75% cải thiện so với ban đầu ở tuần thứ 10 (đánh giá bằng chỉ số PASI).
Nghiên cứu SPIRIT đánh giá hiệu quả của liệu pháp cảm ứng infliximab trên 249 bệnh nhân bị bệnh vảy nến mảng bám mà trước đó đã nhận PUVA hoặc các liệu pháp điều trị toàn thân. Bệnh nhân được dùng 3 hoặc 5 mg/kg infliximab hoặc giả dược truyền vào tuần 0, 2 và tuần 6. Bệnh nhân với số điểm PGA > 3 là đủ điều kiện để nhận được một liều truyền bổ sung tương tự ở tuần 26.
Trong nghiên cứu SPIRIT, tỷ lệ bệnh nhân đạt được PASI 75 ở tuần 10 là 71,7% ở nhóm dùng 3 mg/kg infliximab, 87,9% trong nhóm dùng 5 mg/kg, và 5,9% ở nhóm dùng giả dược (p<0,001). Ở tuần 26, 20 tuần sau liều cảm ứng mới nhất, 30% bệnh nhân trong nhóm dùng 5 mg/kg và 13,8% số bệnh nhân trong nhóm dùng 3 mg/kg đáp ứng PASI 75. Giữa khoảng từ tuần 6 và 26, các triệu chứng của bệnh vẩy nến dần dần quay trở lại với thời gian trung bình để tái phát bệnh > 20 tuần. Không quan sát thấy phục hồi bệnh.
Nghiên cứu EXPRESS đánh giá hiệu quả của điều trị cảm ứng infliximab và điều trị duy trì trên 378 bệnh nhân bệnh vẩy nến mảng bám. Bệnh nhân được dùng 5 mg/kg infliximab hoặc giả dược truyền vào tuần 0, 2 và tuần 6 sau khi điều trị duy trì mỗi 8 tuần cho đến tuần 22 trong nhóm dùng giả dược và qua đến tuần 46 trong nhóm infliximab. Ở tuần 24, nhóm dùng giả dược được chuyển sang điều trị cảm ứng với infliximab (5 mg/kg) tiếp theo là điều trị duy trì với infliximab (5 mg/kg). Vảy nến móng được đánh giá bằng chỉ số Mức độ nghiêm trọng móng vẩy nến (NAPSI). Trước khi điều trị với PUVA, 71,4% số bệnh nhân được nhận methotrexate, cyclosporin, hoặc acitretin, mặc dù họ không nhất thiết phải điều trị lâu dài. Các kết quả quan trọng được thể hiện trong Bảng 8. Ở nhóm điều trị với infliximab, các đáp ứng đáng kể PASI 50 được quan sát trong lần thăm khám đầu tiên (tuần 2) và đáp ứng PASI 75 trong lần thăm khám thứ hai (tuần 6). Hiệu quả tương tự nhau ở các phân nhóm bệnh nhân được tiếp xúc trước với các liệu pháp toàn thân trên so với toàn bộ đối tượng nghiên cứu.
Các chuyển biến đáng kể so với mức cơ bản đã được chứng minh trên chỉ số DLQI ( p <0,001) và các chỉ số điểm thành phần vật chất và tinh thần của SF 36 (p<0,001 cho mỗi so sánh thành phần).
Trên bệnh nhân nhi
Bênh nhi Crohn (6 đến 17 tuổi)
Trong nghiên cứu REACH, 112 bệnh nhân Crohn vừa đến nghiêm trọng (6 đến 17 tuổi, độ tuổi trung bình 13,0 tuổi), thể hoạt động (chỉ số trung bình CDAI của trẻ em là 40) và không đáp ứng đủ các điều trị thông thường được nhận 5 mg/kg infliximab ở các tuần 0, 2, và tuần 6. Tất cả các bệnh nhân được chỉ định 1 liều ổn định 6-MP, AZA hoặc MTX (35% cũng được nhận corticosteroid ban đầu). Bệnh nhân được các điều tra viên đánh giá đáp ứng lâm sàng ở tuần 10 sau đó được chọn ngẫu nhiên và nhận 5 mg/kg infliximab ở hai tuần 8 hoặc 12 để điều trị duy trì. Nếu đáp ứng bị mất đi trong quá trình điều trị duy trì, cho phép bệnh nhân chuyển qua với một liều cao hơn (10 mg/kg) và/hoặc khoảng thời gian dùng thuốc (8 tuần). Ba mươi hai (32) bệnh nhân trẻ em được đánh giá chuyển qua (9 bệnh nhi trong tuần 8 và 23 bệnh nhi trong nhóm điều trị duy trì ở tuần 12). 24 bệnh nhân (75,0%), thu lại được đáp ứng lâm sàng sau khi chuyển liều.
Tỷ lệ các đối tượng nghiên cứu có đáp ứng lâm sàng ở tuần 10 là 88,4 % (99/112). Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu đạt được thuyên giảm lâm sàng ở tuần 10 là 58,9% (66/112).
Ở tuần thứ 30, tỷ lệ các đối tượng nghiên cứu có thuyên giảm lâm sàng trong tuần 8 (59,6%, 31/52) cao hơn so với nhóm điều trị duy trì ở tuần 12 (35,3%, 18/51, p = 0,013). Ở tuần thứ 54, con số này là 55,8% (29/52) và 23,5% (12/51) trong tuần 8 và 12 tuần ở nhóm điều trị duy trì, tương ứng (p <0,001).
Dữ liệu về lỗ rò đã được bắt nguồn từ điểm số PCDAI. 22 đối tượng nghiên cứu đã có lỗ rò từ ban đầu, 63,6% (14/22), 59,1% (13/ 22) và 68,2% (15/ 22) có đáp ứng đầy đủ tương ứng ở tuần 10, 30 và 54, trong nhóm điều trị kết hợp ở tuần 8 và nhóm điều trị duy trì ở tuần 12.
Ngoài ra các dấu hiệu cải thiện đáng kể và có ý nghĩa thống kê về chất lượng cuộc sống và tỷ lệ kéo dài cuộc sống, cũng như giảm đáng kể nhu cầu sử dụng corticosteroid, đã được quan sát thấy so với chỉ số cơ bản.
Viêm loét đại tràng ở bệnh nhi (6-17 tuổi)
Tính an toàn và hiệu quả của infliximab được đánh giá trong một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mở nhãn, song song (C0168T72) trên 60 bệnh nhân trẻ em từ 6 đến 17 tuổi (tuổi trung bình 14,5 tuổi) có viêm loét đại tràng vừa đến nặng thể hoạt động (Mayo điểm 6-12; nội soi >2) đáp ứng không đầy đủ với các điều trị thông thường. Ban đầu 53% số bệnh nhân đang dùng thuốc miễn dịch (6-MP, AZA và/hoặc MTX) và 62% số bệnh nhân được nhận corticosteroid. Bệnh nhân được phép dừng các thuốc điều hòa miễn dịch và giảm liều corticosteroid sau khi tuần 0.
Tất cả các bệnh nhân nhận được một chế độ liều cảm ứng 5 mg/kg infliximab tại tuần 0, 2, và 6. Bệnh nhân không đáp ứng với infliximab vào tuần 8 (n = 15) không nhận được thuốc tiếp tục và trở về an toàn theo dõi. Ở tuần thứ 8, 45 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên và nhận được 5 mg/kg infliximab theo chế độ điều trị duy trì mỗi 8 tuần hoặc 12 tuần.
Tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng lâm sàng vào tuần 8 là 73,3% (44/60). Đáp ứng lâm sàng vào tuần thứ 8 là tương tự giữa các bệnh nhân có hoặc không có sử dụng chất điều chỉnh miễn dịch đồng thời. Thuyên giảm lâm sàng ở tuần 8 là 33,3% (17/51) được đo bằng Điểm chỉ số (PUCAI).
Ở tuần thứ 54, tỷ lệ bệnh nhi thuyên giảm lâm sàng được đo bằng số điểm PUCAI là 38% (8/21) trong nhóm điều trị duy trì ở tuần 8 và 18% (4/22) trong nhóm điều trị duy trì ở tuần 12. Đối với những bệnh nhân đang dùng corticosteroid, tỷ lệ bệnh nhân thuyên giảm và không nhận corticosteroid ở tuần 54 là 38,5% (5/13) trong tuần 8 và 0% (0/13) trong nhóm điều trị duy trì ở tuần 12.
Trong nghiên cứu này, số bệnh nhân trong độ tuổi 12 đến 17 tuổi nhiều hơn so với nhóm 6 đến 11 tuổi (45/60 so với 15/60). Do số lượng bệnh nhân trong mỗi phân nhóm quá nhỏ để rút ra kết luận chắc chắn về tác động của tuổi tác, đã có nhiều hơn các bệnh nhân trong nhóm ít tuổi hơn cần tăng liều hoặc ngừng điều trị do hiệu quả không đầy đủ.
Biến cố khác ở trẻ em
Cơ quan y tế châu Âu đã bỏ nghĩa vụ cung cấp các kết quả nghiên cứu với các tài liệu tham khảo của các sản phẩm có chứa infliximab trong tất cả các nhóm trẻ em trong bệnh lý viêm khớp dạng thấp, trẻ vị thành niên viêm khớp vô căn, viêm khớp vảy nến, viêm cột sống dính khớp, bệnh vảy nến và bệnh Crohn (xem phần Liều lượng và cách dùng để biết thông tin về việc sử dụng trên trẻ em).
Dược động học
Truyền tĩnh mạch liều đơn 1, 3, 5, 10 hoặc 20 mg/kg infliximab dẫn tới tăng tỷ lệ thuận với liều dùng về nồng độ đỉnh (Cmax) và diện tích dưới đường cong (AUC). Thể tích phân bố ở trạng thái ổn định (Vd trung bình từ 3-4,1 lít) không phụ thuộc vào liều dùng và cho thấy infliximab phân bố chủ yếu trong ngăn huyết quản. Không quan sát thấy dược động học phụ thuộc thời gian.
Con đường thải trừ của infliximab chưa được mô tả đầy đủ, Không phát hiện thấy infliximab chưa chuyển hóa trong nước tiểu. Không có sự khác biệt lớn nào về độ thanh thải hoặc phân bố được quan sát thấy ở các nhóm bệnh nhân viêm khớp dạng thấp phân theo tuổi, cân nặng hoặc chức năng gan thận. Dược động học của infliximab trên bệnh nhân cao tuổi chưa được nghiên cứu. Chưa có các nghiên cứu trên bệnh nhân suy gan và thận.
Với mức liều đơn 3, 5 hoặc 10 mg/kg, các giá trị dược động học Cmax trung bình tương ứng là 77, 118 và 277 mcg/mL. Thời gian bán thải cuối trung bình ở các mức liều là từ 8-9,5 ngày. Đối với phần lớn bệnh nhân, có thể phát hiện thấy infliximab trong huyết thanh trong ít nhất 8 tuần sau khi truyền một liều đơn 5 mg/kg trong bệnh Crohn và bệnh viêm khớp dạng thấp với liều duy trì 3 mg/kg trong mỗi 8 tuần.
Điều trị lặp lại với infliximab (5 mg/kg ở các tuần 0, 2 và tuần 6 trên bệnh nhân Crohn có lỗ rò, hoặc liều 3 hay 10 mg/kg mỗi 4 hoặc 8 tuần trong viêm khớp dạng thấp) dẫn đến một sự tích lũy nhẹ infliximab trong huyết thanh sau liều thứ hai. Không thấy tích lũy thuốc này gây ảnh hưởng quan sát được trên lâm sàng. Trong hầu hết bệnh nhân bệnh Crohn có lỗ rò, infliximab đã được phát hiện trong huyết thanh trong 12 tuần (khoảng 4-28 tuần) sau khi điều trị theo chế độ.
Bệnh nhân nhi
Phân tích dược động học trên nhóm bệnh nhân nhi dựa trên dữ liệu thu được từ bệnh nhi viêm loét đại tràng (N = 60), bệnh Crohn (N = 112), viêm khớp dạng thấp ở thanh thiếu niên (N = 117) và bệnh Kawasaki (N = 16) với một độ tuổi tổng thể từ 2 tháng đến 17 năm cho thấy tiếp xúc với infliximab phụ thuộc không tuyến tính vào trọng lượng cơ thể. Sau khi tiêm 5 mg/kg infliximab mỗi 8 tuần, dự đoán nồng độ infliximab trạng thái ổn định trung bình (diện tích dưới đường cong nồng độ thời gian ở trạng thái ổn định, AUCSS) ở trẻ em từ 6 năm đến 17 năm là thấp hơn so với dự đoán khoảng 20% so với trạng thái ổn định trung bình ở người lớn. Các AUCSS trung bình ở trẻ em từ 2 tuổi đến dưới 6 tuổi được dự đoán là thấp hơn so với ở người lớn khoảng 40%, mặc dù số lượng bệnh nhân hỗ trợ ước tính này bị hạn chế.
An toàn tiền lâm sàng
Infliximab không phản ứng chéo với TNF-α của các loài khác ngoài người và tinh tinh. Do đó, các dữ liệu an toàn tiền lâm sàng thông thường với infliximab còn hạn chế. Trong các nghiên cứu độc tính đối với khả năng sinh sản tiến hành trên chuột sử dụng kháng thể tương tự ức chế chọn lọc hoạt tính chức năng của TNF-α của chuột, không thấy có suy giảm chức năng sinh sản, độc tính đối với chuột mang thai, độc tính trên phôi hoặc khả năng gây quái thai.
Trong các nghiên cứu về khả năng sinh sản và chức năng sinh sản nói chung, số chuột cái đang mang thai giảm đi sau khi điều trị với cùng kháng thể tương tự. Vẫn chưa rõ phát hiện này là do tác dụng trên chuột cái hay chuột đực. Trong một nghiên cứu liều độc tính lặp lại kéo dài 6 tháng, việc dùng cùng kháng thể tương tự kháng TNF-α của chuột, thu được các chất kết tủa trên mắt của chuột cái được điều trị. Không có xét nghiệm nhãn khoa cụ thể nào được tiến hành trên người để đánh giá mức độ liên quan của phát hiện này trên người.
Các nghiên cứu lâu dài chưa được thực hiện để đánh giá khả năng gây ung thư của infliximab. Các nghiên cứu về khả năng gây ung thư trên chuột thiếu hụt TNF-α chứng minh không có tăng khối u khi được kích thích với các chất chỉ điểm hoặc thúc đẩy khối u đã biết.
Chỉ định/Công dụng
Viêm khớp dạng thấp
Remsima, kết hợp với methotrexate, được chỉ định để làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng, cũng như cải thiện chức năng thể chất trên các bệnh nhân:
- đang trong tình trạng bệnh lý mà đáp ứng không đầy đủ với các thuốc ngăn ngừa sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp, trong đó có cả methotrexate.
- bệnh nhân với các tình trạng viêm khớp nặng, đang viêm và viêm tiến triển mà chưa được điều trị với methotrexate hoặc các thuốc ngăn ngừa viêm khớp dạng thấp tiến triển khác trước đó.
Trên các đối tượng bệnh nhân này, cần tiến hành lượng giá quá trình tiến triển của tổn thương ở khớp thông qua chụp X-quang (xem thêm mục Dược lực học).
Bệnh Crohn ở người lớn
Infliximab được chỉ định:
- Điều trị bệnh Crohn từ vừa đến nặng, ở người lớn không đáp ứng với quá trình điều trị bằng corticosteroid và/hoặc thuốc ức chế miễn dịch; hoặc người không dung nạp hoặc bị chống chỉ định với các liệu pháp này.
- Điều trị bệnh Crohn vừa đến nặng trên các bệnh nhân có đáp ứng không đầy đủ với liệu pháp thông thường (bao gồm cả liệu pháp dùng thuốc kháng sinh, nối khớp hoặc liệu pháp dùng các thuốc ức chế miễn dịch).
Bệnh Crohn ở trẻ em
Infliximab được chỉ định để điều trị bệnh Crohn tiến triển, nặng ở bệnh nhân nhi từ 6 đến 17 tuổi trong trường hợp không đáp ứng với điều trị thông thường bao gồm thuốc corticosteroid, thuốc điều hòa miễn dịch và liệu pháp dinh dưỡng ban đầu hoặc các trường hợp không dung nạp hay chống chỉ định với các liệu pháp trên. Infliximab chỉ được nghiên cứu phối hợp với các thuốc điều hòa miễn dịch thông thường.
Viêm đại tràng có loét
Remsima được chỉ định điều trị các thể viêm đại tràng có loét hoạt động ở người lớn có đáp ứng không đầy đủ với các liệu pháp chuẩn quy bao gồm điều trị với corticoid và 6-MP hay AZA, hoặc những trẻ không dung nạp hoặc chống chỉ định với các liệu pháp thông thường này.
Viêm đại tràng có loét ở trẻ em
Remsima được chỉ định điều trị các thể viêm đại tràng có loét hoạt động ở trẻ em và trẻ vị thành niên từ 6-17 tuổi mà không đáp ứng đầy đủ với các liệu pháp chuẩn quy bao gồm điều trị với corticoid và 6-MP hay AZA, hoặc những trẻ không dung nạp hoặc chống chỉ định với các liệu pháp thông thường này.
Viêm cột sống dính khớp
Remsima được chỉ định để điều trị các thể viêm cột sống dính khớp nặng, viêm khớp hoạt động trên các bệnh nhân trưởng thành không đáp ứng đầy đủ với liệu pháp điều trị thông thường.
Viêm khớp vảy nến
Remsima được chỉ định nhằm để điều trị viêm khớp vảy nến dạng hoạt động và tiến triển trên bệnh nhân trưởng thành có sự đáp ứng không đầy đủ với các liệu pháp điều trị bằng các thuốc ngăn ngừa viêm khớp dạng thấp tiến triển trước đó. Remsima nên được chỉ định điều trị ở dạng
- phối hợp với methotrexate.
- hoặc điều trị đơn độc cho các bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ với methotrexate hoặc chống chỉ định với methotrexate.
Infliximab đã cho thấy hiệu quả cải thiện chức năng vật lý cho các bệnh nhân viêm khớp vảy nến, và tác động làm giảm tỷ lệ tiến triển của tổn thương khớp ngoại biên như các kết quả đánh giá bằng chụp X-quang trên người bệnh (xem mục Dược lực học).
Bệnh vảy nến
Infliximab được chỉ định điều trị vảy nến dạng mảng mức độ vừa đến nặng ở người lớn đã thất bại không có đáp ứng, hoặc các trường hợp chống chỉ định hoặc không dung nạp với các liệu pháp điều trị toàn thân khác như cyclosporine, methotrexate hoặc PUVA.
Xem mục Dược lực học.
Liều lượng & Cách dùng
Chỉ dùng thuốc theo đường tĩnh mạch.
Remsima chỉ nên được chỉ định và giám sát điều trị bởi các thầy thuốc chuyên khoa có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến và bệnh viêm đường tiêu hóa. Việc truyền thuốc phải được giám sát bởi các thầy thuốc chuyên khoa được đào tạo để có thể phát hiện bất cứ vấn đề nào phát sinh trong khi truyền. Cung cấp tờ hướng dẫn sử dụng cho người bệnh.
Trong quá trình điều trị với Remsima, cần tối ưu hóa các thuốc phối hợp khác như corticoid, các thuốc ức chế miễn dịch.
LIỀU DÙNG
Ở người trưởng thành (≥18 tuổi):
Viêm khớp dạng thấp
Khởi đầu truyền tĩnh mạch liều 3 mg/kg trong 2 giờ, tiếp theo các liều truyền tĩnh mạch 3 mg/kg tại tuần 2 và 6 sau lần truyền đầu tiên, sau đó truyền mỗi 8 tuần. Nên sử dụng phối hợp infliximab với methotrexate.
Các dữ liệu nghiên cứu sẵn có cho thấy đáp ứng lâm sàng thường đạt được trong khoảng 12 tuần điều trị. Nếu bệnh nhân chưa đáp ứng đầy đủ hoặc giảm đáp ứng sau thời gian điều trị trên, cần cân nhắc việc tăng liều lên khoảng 1,5 mg/kg cho tới tối đa 7,5 mg/kg mỗi 8 tuần. Hoặc cân nhắc điều trị với liều 3 mg/kg trong thời gian 4 tuần. Nếu đã đạt được đáp ứng điều trị cần thiết, bệnh nhân nên tiếp tục với liều chỉ định hoặc tần suất dùng thuốc.
Cần đánh giá lại việc tiếp tục liệu pháp điều trị trên các bệnh nhân không cho thấy hiệu quả lâm sàng trong 12 tuần điều trị đầu tiên hoặc sau khi đã điều chỉnh liều.
Bệnh Crohn mức độ vừa đến nặng ở người lớn
Truyền tĩnh mạch một liều đơn 5 mg/kg sau đó tiếp tục một liều bổ sung 5 mg/kg trong vòng 2 tuần sau liều truyền đầu tiên. Nếu người bệnh không đáp ứng với 2 liều đó, không nên tiếp tục bổ sung liều. Chưa có đủ dữ liệu lâm sàng cho thấy nên điều trị tiếp, khi người bệnh không đạt được đáp ứng điều trị trong vòng 6 tuần sau liều chỉ định đầu tiên.
Đối với bệnh nhân có đáp ứng điều trị, các chiến lược điều trị tiếp theo có thể cân nhắc là:
- Điều trị duy trì: bổ sung thêm 1 liều 5 mg/kg 6 tuần sau liều đầu tiên, sau đó bổ sung sau mỗi 8 tuần hoặc
- Điều trị nhắc lại: truyền một liều 5 mg/kg nếu thấy dấu hiệu và triệu chứng bệnh tái phát (xem phần điều trị nhắc lại - Mục Cảnh báo)
Mặc dù còn thiếu các nghiên cứu so sánh, có ít dữ liệu trên các bệnh nhân có đáp ứng ban đầu với mức liều 5 mg/kg song trên các bệnh nhân mất đáp ứng cho thấy người bệnh thực tế có thể có đáp ứng lâm sàng trở lại với mức liều tăng dần (xem mục Dược lực học). Cần cân nhắc thận trọng việc tiếp tục điều trị cho các bệnh nhân không cho thấy hiệu quả trên lâm sàng sau khi đã hiệu chỉnh liều.
Bệnh Crohn có lỗ rò ở người lớn
Khởi đầu liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch, sau đó 2 liều 5 mg/kg vào 2 và 6 tuần sau liều đầu tiên. Nếu bệnh nhân không đáp ứng sau 3 liều, không nên điều trị thêm với infliximab.
Trên các bệnh nhân có đáp ứng, chiến lược điều trị tiếp tục là:
- Điều trị duy trì: Truyền thêm 5 mg/kg mỗi 8 tuần hoặc
- Điều trị nhắc lại nếu các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh tái diễn: dùng 5 mg/kg mỗi 8 tuần (xem phần Cảnh báo dưới đây)
Mặc dù còn thiếu các nghiên cứu so sánh, có ít dữ liệu trên các bệnh nhân có đáp ứng ban đầu với mức liều 5 mg/kg song trên các bệnh nhân mất đáp ứng có cho thấy người bệnh thực tế có thể có đáp ứng lâm sàng với mức liều tăng dần (xem mục Dược lực học). Cần cân nhắc thận trọng việc tiếp tục điều trị cho các bệnh nhân không cho thấy hiệu quả trên lâm sàng sau khi đã hiệu chỉnh liều.
Trong bệnh Crohn, kinh nghiệm điều trị nhắc lại trên các tình trạng dấu hiệu và triệu chứng của bệnh tái diễn còn hạn chế và thiếu các dữ liệu so sánh về lợi ích/nguy cơ của các chiến lược thay thế đối với điều trị nhắc lại.
Viêm đại tràng có loét
5 mg/kg truyền trong 2 giờ, tiếp theo liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch tại tuần 2 và tuần 6 sau lần truyền đầu tiên, tiếp theo đó là mỗi 8 tuần.
Các dữ liệu hiện có cho thấy đáp ứng lâm sàng thường đạt được sau 14 tuần điều trị, tức là sau 3 liều. Cần đánh giá lại liệu pháp điều trị nếu người bệnh không cho thấy dấu hiệu về lợi ích điều trị thu được trong khoảng thời gian này.
Viêm cột sống dính khớp
Liều khởi đầu là 5 mg/kg truyền tĩnh mạch trong 2 giờ, tiếp theo là liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch tại tuần 2 và tuần 6 sau lần truyền đầu tiên, sau đó mỗi 6-8 tuần.
Nếu bệnh nhân không cho thấy đáp ứng sau 6 tuần (tức 2 liều điều trị), không nên tiếp tục điều trị với infliximab.
Viêm khớp vảy nến
Liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch tiếp theo là một liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch tại tuần 2 và tuần 6 sau lần truyền đầu tiên, sau đó mỗi 8 tuần.
Vảy nến
Liều khởi đầu là 5 mg/kg truyền tĩnh mạch, tiếp theo là liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch tại tuần 2 và tuần 6 sau lần truyền đầu tiên, sau đó mỗi 8 tuần. Nếu người bệnh không cho thấy đáp ứng sau 14 tuần điều trị (sau 4 liều), không nên tiếp tục điều trị với infliximab.
Điều trị nhắc lại trong bệnh Crohn và viêm khớp dạng thấp
Nếu các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh tái diễn, có thể điều trị nhắc lại infliximab trong vòng 16 tuần sau lần truyền cuối cùng. Trong các nghiên cứu lâm sàng, có ghi nhận các phản ứng quá mẫn chậm xảy ra không phổ biến và chỉ xuất hiện sau khi cách liều dưới 1 năm (xem thêm mục Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý). Tính an toàn và hiệu quả của việc điều trị nhắc lại sau khoảng cách liều hơn 16 tuần chưa được nghiên cứu đánh giá. Kết luận này áp dụng cho cả bệnh nhân Crohn và viêm khớp dạng thấp.
Việc điều trị nhắc lại trên bệnh viêm loét tá tràng
Tính an toàn và hiệu quả của việc điều trị nhắc lại sau khoảng cách liều hơn 8 tuần hiện vẫn chưa được nghiên cứu đánh giá (xem phần Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý).
Điều trị nhắc lại trong bệnh viêm cột sống dính khớp
Tính an toàn và hiệu quả của việc điều trị nhắc lại sau khoảng cách liều khác với mức 6-8 tuần hiện vẫn chưa được nghiên cứu đánh giá (xem phần Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý).
Điều trị nhắc lại trong bệnh viêm khớp vảy nến
Tính an toàn và hiệu quả của việc điều trị nhắc lại sau khoảng ngắt liều khác với mức 8 tuần hiện vẫn chưa được nghiên cứu đánh giá (xem phần Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý).
Sử dụng lại đối với bệnh vảy nến: dựa trên một số kinh nghiệm từ việc điều trị lại sau một liều đơn infliximab đối với bệnh vảy nến sau một khoảng thời gian 20 tuần cho thấy có sự giảm hiệu quả và tần suất phản ứng liên quan tới truyền cao hơn khi so sánh với hướng dẫn về liều dùng đã được phê duyệt (xem phần Dược lực học).
Kinh nghiệm về việc điều trị lại sau khi bệnh bùng tái phát bởi một chế độ trị liệu cho thấy có sự tăng tần xuất phản ứng liên quan tới việc truyền thuốc, bao gồm cả những phản ứng nghiêm trọng nhiều hơn so với liệu pháp điều trị duy trì mỗi 8 tuần.
Điều trị nhắc lại trên một số chỉ định liên quan
Trong trường hợp điều trị duy trì bị gián đoạn, và cần thiết phải khởi động lại điều trị, không khuyến cáo việc sử dụng một chế độ trị liệu cảm ứng (xem phần Tác dụng ngoại ý). Trong trường hợp này, Remsima nên được tái khởi động điều trị với một liều duy nhất theo sau là liều duy trì khuyến cáo ở trên.
Bệnh nhân trên 65 tuổi
Các nghiên cứu cụ thể tiến hành khi điều trị Remsima cho bệnh nhân cao tuổi chưa được thực hiện. Không thấy sự liên quan đáng kể về độ tuổi trên sự khác biệt của các thông số dược động học như độ thanh thải hay thể tích phân bố. Không cần hiệu chỉnh liều (xem mục Dược động học). Tham khảo thêm mục Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý về tính an toàn khi dùng thuốc trên bệnh nhân cao tuổi.
Dùng thuốc trên bệnh nhân suy gan, thận
Chưa có nghiên cứu về việc dùng thuốc trên đối tượng bệnh nhân này. Không có mức liều khuyến cáo được áp dụng.
Dùng thuốc trên trẻ nhỏ
Bệnh Crohn (cho trẻ từ 6-17 tuổi)
Khởi đầu liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch, tiếp theo là liều 5 mg/kg vào tuần 2 và tuần 6 sau liều đầu tiên, sau đó là mỗi 8 tuần. Dữ liệu nghiên cứu hiện có không ủng hộ cho việc điều trị lâu hơn trên trẻ em và trẻ trưởng thành không có đáp ứng điều trị trong 10 tuần đầu tiên (xem mục Dược lực học).
Một số bệnh nhân có thể cần điều trị với khoảng cách giãn liều ngắn hơn để duy trì được hiệu quả lâm sàng, trong khi một số khác lại cần khoảng cách giãn liều dài hơn. Bệnh nhân có khoảng cách giãn liều dưới 8 tuần có thể có nguy cơ cao hơn gặp các tác dụng không mong muốn. Cần thận trọng khi chỉ định tiếp tục điều trị với khoảng cách giãn liều ngắn hơn cho các đối tượng bệnh nhân không cho thấy hiệu quả lâm sàng của việc điều trị thêm sau khi đã thay đổi khoảng cách giãn liều.
Tính an toàn và hiệu quả điều trị của Remsima chưa được nghiên cứu cho trẻ dưới 6 tuổi bị bệnh Crohn. Các dữ liệu dược động học hiện tại mô tả trong mục Dược động học không cho thấy khuyến cáo nào về liều dùng cho trẻ dưới 6 tuổi.
Bệnh nhân viêm loét tá tràng (6-17 tuổi)
Khởi đầu liều 5 mg/kg truyền tĩnh mạch, tiếp theo là liều 5 mg/kg vào tuần 2 và tuần 6 sau liều đầu tiên, sau đó mỗi 8 tuần. Dữ liệu nghiên cứu hiện có không ủng hộ cho việc điều trị lâu hơn trên trẻ em và trẻ trưởng thành không có đáp ứng điều trị trong 8 tuần đầu tiên (xem mục Dược lực học).
Trẻ dưới 6 tuổi
Tính an toàn và hiệu quả điều trị của Remsima chưa được nghiên cứu cho trẻ dưới 6 tuổi bị viêm loét tá tràng.
Các dữ liệu dược động học hiện tại mô tả trong mục Dược động học không cho thấy khuyến cáo nào về liều dùng cho trẻ dưới 6 tuổi.
Bệnh vảy nến
Sự an toàn và hiệu quả của Remsima ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi trong bệnh vảy nến còn chưa được nghiên cứu xác lập. Hiện số liệu được mô tả trong phần Dược động học không cho thấy khuyến cáo về liều chỉ định cho đối tượng bệnh nhân này.
Trẻ vị thành niên viêm khớp vô căn, viêm khớp vảy nến và viêm cột sống dính khớp
Tính an toàn và hiệu quả của Remsima ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi trong các dấu hiệu này chưa được thiết lập. Hiện số liệu được mô tả trong phần Dược động học không cho thấy khuyến cáo về liều chỉ định cho đối tượng bệnh nhân này.
Viêm khớp dạng thấp ở trẻ vị thành niên
Tính an toàn và hiệu quả của Remsima ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi trong các dấu hiệu bệnh lý này còn chưa được thiết lập. Hiện số liệu được mô tả trong phần Tác dụng ngoại ý và Dược động học không cho thấy khuyến cáo về liều chỉ định cho đối tượng bệnh nhân này.
Trên bệnh nhân suy gan/thận
Hiện chưa có nghiên cứu tiến hành trên đối tượng bệnh nhân này. Không có mức liều khuyến cáo nào được áp dụng (xem mục Dược động học).
CÁCH DÙNG
Để kiểm soát triệu chứng tối ưu, lâu dài, truyền tĩnh mạch thuốc trong 2 giờ. Quan sát việc điều trị trên các bệnh nhân trong vòng ít nhất 1-2 giờ sau khi truyền để đề phòng các phản ứng liên quan đến việc truyền dịch. Chuẩn bị sẵn các thiết bị cấp cứu hỗ trợ, như adrenalin, kháng histamine, corticoid và mở sẵn đường hô hấp nhân tạo. Người bệnh cần được điều trị trước với các thuốc kháng histamine, hydrocortisone và/hoặc paracetamol cũng như truyền thuốc chậm để giảm nguy cơ các phản ứng liên quan đến việc truyền dịch, đặc biệt khi đã có tiền sử với các phản ứng này (xem thêm mục Cảnh báo).
Khoảng cách giãn truyền ngắn trên các chỉ định dành cho người lớn
Chọn lựa cẩn thận các bệnh nhân trưởng thành có thể dung nạp ít nhất 3 liều khởi đầu trong vòng 2 giờ truyền dịch với Remsima (pha cảm ứng) và sau khi tiếp nhận điều trị duy trì, có thể xem xét để truyền tiếp theo trong khoảng thời gian không ít hơn 1 giờ. Nếu phản ứng truyền xảy ra khi khoảng cách giãn truyền ngắn, cần xem xét tốc độ truyền chậm hơn cho các lần truyền tới nếu vẫn tiếp tục điều trị. Hiện chưa có nghiên cứu về mức truyền ngắn với liều >6 mg/kg (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Xem phần chuẩn bị và pha dung dịch thuốc ở mục Thận trọng lúc dùng.
Thận trọng lúc dùng
Thận trọng đặc biệt trong tiêu hủy và xử lý
1. Tính toán liều cần thiết và số lọ Remsina. Mỗi lọ Remsima chứa 100 mg infliximab. Tính tổng thể tích dung dịch infliximab hoàn nguyên cần thiết .
2. Hoàn nguyên mỗi lọ Remsima với 10 mL nước cất pha tiêm, sử dụng bơm tiêm có mũi tiêm kích thước 0,8mm (21-gauge) hoặc kim tiêm nhỏ hơn. Sau khi hoàn nguyên, mỗi mL dung dịch hoàn nguyên chứa 10 mg infliximab. Búng nhẹ vào đầu lọ thuốc, lau sạch bằng gạc tẩm cồn 70%. Xuyên kim tiêm vào trong lọ thuốc tại vị trí trung tâm của nút cao su và đưa thẳng dòng nước cất pha tiêm vào thành thủy tinh của lọ thuốc. Xoay nhẹ nhàng lọ thuốc để hòa tan bột đông khô. Không được lắc. Không thường gặp tạo bọt trong dung dịch khi hoàn nguyên. Để yên dung dịch hoàn nguyên trong 5 phút. Kiểm tra xem dung dịch từ không màu, tới vàng nhạt và trắng đục. Có thể phát sinh vài tiểu phân trong mờ nhỏ vì infliximab là protein. Không sử dụng nếu thấy xuất hiện các tiểu phân mờ đục, đổi màu hoặc có tiểu phân lạ.
3. Hòa tan toàn bộ thể tích dung dịch infliximab đã hoàn nguyên vào 250 mL dùng dịch tiêm truyền NaCl 0,9%. Thao tác này cần được tiến hành bằng cách rút một thể tích dung dịch NaCl tiêm truyền 0,9% tương đương với thể tích infliximab hoàn nguyên từ chai đựng dung dịch tiêm truyền NaCl 0,9%, thêm từ từ toàn bộ thể tích infliximab đã hoàn nguyên vào chai hoặc túi dung dịch tiêm truyền 250 mL. Hòa lẫn nhẹ nhàng.
4. Thời gian truyền dung dịch này không dưới 2 giờ (không nhiều hơn 2mL/phút). Sử dụng một bộ tiêm truyền gồm 1 dây truyền, có màng lọc vô trùng, không gây chí nhiệt tố, gắn protein thấp (cỡ lỗ lọc ≤1,2 micromet). Vì không chứa chất bảo quản, khuyến cáo sử dụng dung dịch tiêm truyền càng sớm càng tốt, trong vòng 3 giờ sau khi hoàn nguyên và pha loãng. Nếu quá trình hoàn nguyên và pha loãng được làm trong điều kiện vô trùng chặt chẽ, dung dịch tiêm truyền infliximab có thể dùng được trong vòng 24 giờ nếu bảo quản ở 2°C - 8°C. Không bảo quản bất cứ phần dung dịch truyền nào còn lại để sử dụng lại.
5. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào về tính tương hợp sinh học, vật lý để đánh giá việc sử dụng đồng thời infliximab với các thuốc khác. Không truyền infliximab cùng một đường truyền với các thuốc khác.
6. Kiểm tra bằng mắt các tiểu phân hoặc biến màu các sản phẩm thuốc tiêm trước khi dùng. Không sử dụng nếu quan sát thấy các tiểu phân lạ, các hạt lạ hoặc biến màu.
7. Loại bỏ bất cứ phần dung dịch chưa sử dụng nào.
Cảnh báo
Để thuận tiện trong việc truy cứu nguồn gốc của sản phẩm thuốc sinh học, các tên thương mại và số lô sản phẩm thuốc sử dụng cần được ghi rõ ràng (hoặc nêu) trong hồ sơ bệnh nhân.
Các phản ứng do truyền dịch và phản ứng quá mẫn
Infliximab có liên quan tới một số phản ứng cấp do truyền dịch bao gồm sốc kiểu phản vệ, hoặc phản ứng quá mẫn chậm (xem mục Tác dụng ngoại ý).
Các phản ứng cấp do truyền dịch bao gồm các phản ứng sốc kiểu phản vệ có thể gặp (có thể trong vài giây) hoặc sau vài giờ sau khi truyền dịch. Nếu xuất hiện các phản ứng cấp do truyền dịch, cần dừng việc truyền dịch ngay. Chuẩn bị sẵn các phương tiện cấp cứu như adrenalin, kháng histamine, corticoid và đường dẫn khí nhân tạo. Bệnh nhân có thể được điều trị sẵn với kháng histamine, hydrocortison và/hoặc paracetamol để ngăn ngừa các phản ứng nhẹ hoặc thoáng qua. Kháng thể với infliximab có thể tăng và liên quan đến việc gia tăng các tác dụng không mong muốn do truyền dịch.
Một tỷ lệ nhỏ của các phản ứng với việc truyền dịch là phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Mối liên quan giữa sự phát triển của các kháng thể với infliximab và giảm thời gian phản ứng cũng đã được quan sát thấy. Dùng đồng thời các chất điều hòa miễn dịch cũng liên quan với tỷ lệ thấp hơn các kháng thể infliximab và giảm tần số các phản ứng truyền. Hiệu quả của liệu pháp miễn dịch đồng thời ở bệnh nhân điều trị theo giai đoạn lớn hơn ở bệnh nhân điều trị duy trì. Bệnh nhân ngừng sử dụng thuốc ức chế miễn dịch trước hoặc trong khi điều trị infliximab có nguy cơ phát triển các kháng thể này. Không phải lúc nào cũng phát hiện được kháng thể kháng infliximab trong các mẫu huyết thanh. Nếu phản ứng nghiêm trọng xảy ra, tiến hành ngay việc điều trị triệu chứng và dừng truyền Remsima (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Trong các nghiên cứu lâm sàng, phản ứng quá mẫn chậm đã được báo cáo. Dữ liệu có sẵn cho thấy tăng nguy cơ phản ứng quá mẫn chậm với việc gia tăng khoảng thời gian không điều trị với Remsima. Bệnh nhân nên được khuyên đi tìm tư vấn y tế ngay lập tức nếu họ gặp bất kỳ tác dụng phụ chậm nào (xem phần Tác dụng ngoại ý). Nếu bệnh nhân được tái điều trị sau một thời gian dài, cần theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu và triệu chứng của phản ứng quá mẫn chậm.
Nhiễm khuẩn
Cần kiểm soát các nhiễm trùng của người bệnh, kể cả bệnh lao, trước và sau khi điều trị với Remsima. Do việc thanh thải thuốc ra khỏi cơ thể có thể mất 6 tháng, cần giám sát người bệnh trong suốt giai đoạn này. Cân nhắc không điều trị thêm với Remsima trong trường hợp bệnh nhân phát triển các nhiễm trùng hoặc nhiễm khuẩn nghiêm trọng.
Cần áp dụng các biện pháp thận trọng trong khi điều trị Remsima trên các bệnh nhân nhiễm trùng mạn tính hoặc có tiền sử nhiễm trùng tái diễn. Bệnh nhân cần được tư vấn và tránh tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn bằng cách thích hợp.
Yếu tố hoại tử khối u TNF-α là trung gian của quá trình viêm và điều hòa phản ứng miễn dịch tế bào. Dữ liệu thực nghiệm cho thấy TNF-α là cần thiết cho việc "làm sạch" các bệnh nhiễm trùng nội bào. Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy rằng vật chủ được bảo vệ chống lại nhiễm trùng bị tổn thương trong một số bệnh nhân được điều trị bằng infliximab.
Cần lưu ý rằng việc tiêu diệt các TNF-α có thể che dấu các triệu chứng bị nhiễm trùng như sốt. Nhận biết sớm về các dạng biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng kiểu điển hình của các nhiễm trùng nặng và nhiễm trùng hiếm gặp cũng như thường gặp là rất quan trọng để giảm thiểu sự chậm trễ trong chẩn đoán và điều trị.
Bệnh nhân điều trị với các thuốc chẹn TNF dễ bị nhiễm trùng nghiêm trọng.
Bệnh lao, nhiễm khuẩn, bao gồm cả nhiễm trùng huyết và viêm phổi, nấm, virus, và các nhiễm trùng cơ hội xâm lấn đã được quan sát thấy trên các bệnh nhân được điều trị bằng infliximab. Một số trường hợp nhiễm trùng gây tử vong; thường xuyên nhất được báo cáo với thể nhiễm trùng cơ hội với tỷ lệ tử vong >5% bao gồm nhiễm nấm pneumocystosis, candida, nhiễm listeria và nấm aspergillus.
Cần theo dõi chặt chẽ các bệnh nhân mắc nhiễm trùng mới trong khi điều trị với Remsima và tiến hành chẩn đoán đầy đủ. Nên dừng điều trị với Remsima nếu nhiễm trùng phát triển nghiêm trọng hoặc nhiễm trùng huyết, và điều trị kháng sinh hoặc kháng nấm thích hợp đến khi nhiễm trùng được kiểm soát.
Bệnh lao
Đã có báo cáo về bệnh lao thể hoạt động trên các bệnh nhân điều trị với infliximab. Cần lưu ý rằng trong đa số các báo cáo về bệnh lao ngoài phổi, phổ biến với dạng lao cục bộ hoặc toàn phát.
Trước khi bắt đầu điều trị với Remsima, cần đánh giá các thể lao hoạt động và không hoạt động "tiềm ẩn" trên tất cả bệnh nhân. Việc đánh giá này cần gồm đánh giá tiền sử chi tiết về bệnh sử với tiền sử cá nhân về bệnh lao hoặc có tiếp xúc với vi khuẩn lao trước đó cũng như liệu pháp ức chế miễn dịch trước đó và/hoặc hiện thời. Các test sàng lọc thích hợp như test da đối với vi khuẩn lao, nên tiến hành với tất cả các bệnh nhân (đề nghị địa phương có thể áp dụng). Khuyến cáo tiến hành các xét nghiệm này nên được ghi lại trong thẻ cảnh báo của bệnh nhân. Các bác sỹ kê đơn cần được nhắc nhở về nguy cơ kiểm tra âm tính giả với bệnh lao qua test trên da, đặc biệt ở những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc suy giảm miễn dịch.
Trường hợp bệnh nhân mắc lao hoạt động, không tiến hành điều trị với Remsima (xem phần Chống chỉ định).
Nếu có nghi ngờ lao tiềm ẩn, bác sỹ cần tư vấn bệnh nhân điều trị lao. Trong tất cả các trường hợp kể trên, cần đặc biệt thận trọng cân nhắc yếu tố lợi ích/nguy cơ khi chỉ định liệu pháp điều trị với Remsima.
Nếu người bệnh được chẩn đoán lao tiềm ẩn (lao dạng không hoạt động), việc điều trị có thể bắt đầu với liệu pháp kháng sinh kháng lao trước khi chỉ định Remsima, và áp dụng các khuyến cáo tại địa phương.
Nếu bệnh nhân đã từng có một vài yếu tố hoặc yếu tố nguy cơ rõ rệt với bệnh lao đồng thời có kết quả âm tính với xét nghiệm bệnh lao, cần cân nhắc liệu pháp dùng các thuốc kháng lao trước khi chỉ định Remsima.
Điều trị với các thuốc chống lao cũng cần được xem xét trước khi khởi đầu điều trị với Remsima trên các bệnh nhân có tiền sử bệnh lao tiềm ẩn hoặc hoạt động khi mà một liệu trình đầy đủ không thể được xác nhận.
Người bệnh cần thông báo cho cơ quan y tế nếu có dấu hiệu/triệu chứng gợi ý bệnh lao (ví dụ như ho dai dẳng, sụt cân/giảm cân, sốt nhẹ) xuất hiện trong hoặc sau khi điều trị Remsima.
Nhiễm nấm thể xâm lấn
Trên các bệnh nhân điều trị với Remsima, có thể nghi ngờ tình trạng nhiễm nấm xâm lấn như aspergillus, candida, pneumocystis, histoplasmosis, coccodioidomycosis hoặc blastomycosis nếu bệnh nhân tiến triển tình trạng bệnh toàn thân nặng. Cần tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán và điều trị các bệnh về nấm sớm khi thăm khám các bệnh nhân này. Tình trạng nhiễm nấm có thể biểu hiện toàn phát chứ không cục bộ, các xét nghiệm kháng thể kháng nguyên có thể cho kết quả âm tính trên bệnh nhân đã nhiễm nấm. Các kinh nghiệm điều trị nấm phù hợp cần được xem xét khi tiến hành chẩn đoán, xem xét cả nguy cơ nhiễm nấm nặng và nguy cơ của các liệu pháp kháng nấm.
Đối với bệnh nhân cư trú tại các địa phương hoặc vùng có bệnh nhiễm nấm xâm lấn như histoplasmosis, coccodioidomycosis hoặc blastomycosis, cần xem xét lợi ích và rủi ro của việc điều trị bằng Remsima cẩn thận trước khi bắt đầu điều trị.
Bệnh Crohn có lỗ rò
Bệnh nhân bệnh Crohn với lỗ rò mủ cấp tính không được chỉ định điều trị Remsima cho đến khi nguồn lây nhiễm nguy cơ, đặc biệt là áp xe, đã được loại trừ (xem phần Chống chỉ định).
Viêm gan B (HBV) tái phát
Phản ứng của bệnh viêm gan B đã xảy ra ở những bệnh nhân điều trị với một chất đối kháng TNF trong đó có infliximab, trên các bệnh nhân mang virus mạn tính. Một số trường hợp tử vong đã được báo cáo.
Bệnh nhân nên được kiểm tra nhiễm HBV trước khi bắt đầu điều trị với Remsima. Đối với bệnh nhân có xét nghiệm dương tính với HBV, cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa trong điều trị viêm gan B. Người mang virus HBV nếu phải điều trị với Remsima cần được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm HBV hoạt động trong suốt thời gian điều trị và trong vài tháng sau đó. Hiện vẫn chưa có đủ các dữ liệu về điều trị cho bệnh nhân mang HBV có điều trị kháng virus kết hợp điều trị với các kháng TNF để ngăn ngừa HBV tái hoạt động. Ở những bệnh nhân viêm gan B tái hoạt động, nên ngưng điều trị Remsima và khởi đầu điều trị kháng virus và các trị liệu hỗ trợ thích hợp.
Các biến cố gan mật
Rất hiếm gặp vàng da và viêm gan không có nhiễm khuẩn, đã quan sát được một số trường hợp có đặc điểm của viêm gan tự miễn trong các báo cáo lưu hành của infliximab. Các trường hợp suy gan riêng biệt dẫn tới ghép gan hoặc tử vong đã xảy ra. Cần đánh giá các dấu hiệu và triệu chứng của người bệnh về các tổn thương chức năng để có bằng chứng về tổn thương tại gan. Cần ngưng điều trị infliximab và cần thực hiện đánh giá toàn diện về bất thường này.
Điều trị đồng thời yếu tố ức chế TNF-α và anakinra
Có ghi nhận về tình trạng nhiễm khuẩn và giảm bạch cầu hạt nghiêm trọng trong các thử nghiệm lâm sàng sử dụng đồng thời anakinra với một hoạt chất ức chế TNF-α, atanercept, và không có thêm lợi ích lâm sàng so với dùng atanercept đơn độc. Do bản chất của các tác dụng bất lợi ghi nhận khi dùng phối hợp etanercept và anakinra, các độc tính tương tự cũng có thể đến từ sự phối hợp anakinra với các chất ức chế TNF alpha khác. Do đó không khuyến cáo phối hợp infliximab với anakinra.
Điều trị đồng thời yếu tố ức chế TNF-α và abatacept
Trong các nghiên cứu lâm sàng, sử dụng đồng thời các chất ức chế TNF và abatacept liên quan tới tăng nguy cơ nhiễm khuẩn bao gồm các nhiễm khuẩn nặng so với sử dụng chất ức chế TNF đơn độc và không tăng lợi ích lâm sàng. Do bản chất của các tác dụng bất lợi ghi nhận khi dùng phối hợp etanercept và anakinra, không khuyến cáo phối hợp infliximab và abatacept.
Điều trị phối hợp với các thuốc kháng sinh
Còn thiếu các dữ liệu về việc phối hợp infliximab với các thuốc kháng sinh. Không khuyến cáo việc điều trị phối hợp này do có thể làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, cũng như nguy cơ về các tương tác dược học khác.
Chuyển đổi giữa các DMARDs sinh học
Cần thận trọng khi chuyển từ hoạt chất sinh học này sang một hoạt chất sinh học khác, người bệnh cần phải tiếp tục kiểm soát về các dấu hiệu nhiễm trùng do việc chuyển đổi này có thể gây tăng nguy cơ phản ứng không mong muốn, bao gồm nhiễm khuẩn.
Tiêm chủng
Chưa có đủ các dữ liệu về đáp ứng với tiêm chủng các vaccine sống hoặc lây truyền nhiễm khuẩn thứ phát bởi các vaccine sống trên các bệnh nhân điều trị kháng TNF. Khuyến cáo không nên dùng đồng thời với vacccine sống.
Các quá trình tự miễn
Thiếu hụt tương đối TNF-α gây ra bởi liệu pháp kháng TNF có thể dẫn tới khởi phát một quá trình tự miễn trên một nhóm bệnh nhân dễ bị tổn thương về gen. Nếu một bệnh nhân phát triển các triệu chứng nghi ngờ của hội chứng giống lupus sau khi điều trị với infliximab và dương tính với các kháng thể kháng DNA chuỗi kép, nên ngưng điều trị (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Các biến cố về thần kinh
Việc điều trị với infliximab và các chất ức chế TNF-α khác có liên quan tới các trường hợp hiếm gặp rối loạn thần kinh myelin, bao gồm bệnh đa xơ cứng, rối loạn và tiêu hủy myelin ngoại biên, trong đó có hội chứng Guillain-Barre. Khuyến cáo đánh giá nguy cơ và lợi ích cẩn thận khi kê đơn infliximab cho các bệnh nhân có các rối loạn mất myelin tồn tại trước đó hoặc mới khởi phát. Ở bệnh nhân bắt đầu từ trước hoặc mới gặp rối loạn hủy myelin, cần đánh giá các lợi ích và rủi ro của điều trị kháng TNF trước khi bắt đầu điều trị bằng Remsima. Cần xem xét ngưng điều trị với Remsima nếu xuất hiện rối loạn.
Khối u ác tính và rối loạn lympho
Trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát của các tác nhân chẹn TNF, đã quan sát thấy trường hợp bị khối u ác tính bao gồm u lympho ở những bệnh nhân điều trị với một thuốc chẹn TNF cao hơn so với bệnh nhân nhóm chứng. Trong các nghiên cứu lâm sàng của infliximab trên tất cả các chỉ định đã được duyệt, tỷ lệ mắc ung thư hạch ở những bệnh nhân được điều trị bằng infliximab là cao hơn so với nhóm chứng là cư dân nói chung, song sự xuất hiện của u lympho là rất hiếm. Trong các báo cáo sau khi lưu hành thuốc, trường hợp bệnh bạch cầu đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị thụ thể kháng TNF. Có nguy cơ gia tăng u lympho và bệnh bạch cầu ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp bị viêm lâu dài, thể hoạt động cao, điều này gây khó khăn trong việc xác định các rủi ro.
Trong một nghiên cứu lâm sàng thăm dò đánh giá việc sử dụng infliximab ở những bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính vừa đến nặng (COPD), đã có báo cáo nhiều khối u ác tính ở những bệnh nhân được điều trị với infliximab so với bệnh nhân kiểm soát. Tất cả bệnh nhân đều có tiền sử nghiện thuốc nặng. Cần thận trọng trong việc xem xét điều trị bệnh nhân tăng nguy cơ bệnh ác tính do hút thuốc lá nặng.
Dựa trên những kinh nghiệm hiện tại, không loại trừ nguy cơ tiến triển u bạch huyết hoặc khối u ác tính khác trên bệnh nhân được điều trị với chất ức chế TNF. Cần thận trọng khi chỉ định liệu pháp dùng chất ức chế TNF trên các bệnh nhân đã có tiền sử u ác tính hoặc khi xem xét tiếp tục điều trị trên bệnh nhân phát triển u ác tính.
Cần thận trọng khi chỉ định thuốc trên các bệnh nhân bệnh vẩy nến và có tiền sử điều trị kéo dài với các thuốc ức chế miễn dịch hay các PUVA.
Các trường hợp hiếm sau khi lưu hành thuốc, tình trạng u lympho tế bào T (HSTCL) đã được báo cáo trên những bệnh nhân điều trị bằng thuốc ức chế TNF trong đó có infliximab. Đây là loại hiếm của u lympho tế bào T, thể u rất mạnh và thường gây tử vong. Tất cả các trường hợp điều trị với infliximab đã xảy ra trên bệnh nhân bị bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng và phần lớn trong số đã được báo cáo là trẻ vị thành niên nam giới trẻ. Các bệnh nhân đã được điều trị với AZA hoặc 6-MP đồng thời hoặc ngay trước khi điều trị với infliximab. Cần thận trọng cân nhắc nguy cơ tiềm ẩn với sự kết hợp của AZA hoặc 6-MP. Không loại trừ nguy cơ tiến triển u lympho tế bào T của gan-lách trên bệnh nhân được điều trị bằng Remsima (xem phần Liều lượng và cách dùng và Tác dụng ngoại ý).
Khối u ác tính và ung thư biểu mô tế bào Merkel đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị với thuốc chẹn TNF, bao gồm infliximab (xem phần Tác dụng ngoại ý). Khuyến cáo kiểm tra da định kỳ, đặc biệt đối với những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ đối với ung thư da.
Tất cả bệnh nhân viêm loét đại tràng là những người có nguy cơ cao bị loạn sản hoặc ung thư ruột kết (ví dụ, bệnh nhân bị viêm loét đại tràng lâu dài hoặc tiêu xơ viêm đường mật), hoặc những người có tiền sử loạn sản hoặc ung thư đại tràng nên được kiểm tra chứng loạn sản thường xuyên trong khoảng thời gian trước khi điều trị và trong suốt quá trình trị bệnh của họ. Đánh giá này phải bao gồm nội soi và sinh thiết theo khuyến nghị của địa phương. Với các dữ liệu hiện tại, không rõ điều trị infliximab có gây ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển loạn sản hoặc ung thư ruột kết không (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Do nguy cơ phát triển ung thư trên bệnh nhân mới được chẩn đoán loạn sản sau điều trị với infliximab chưa được thiết lập, cần cân nhắc cẩn thận nguy cơ/lợi ích cho người bệnh và xem xét dừng điều trị nếu cần.
Suy tim
Remsima nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân suy tim nhẹ (NYHA I/II). Bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và không tiếp tục chỉ định thuốc cho bệnh nhân có các triệu chứng mới hoặc xấu đi của suy tim (xem phần Chống chỉ định và Tác dụng ngoại ý).
Phản ứng trên huyết học
Đã có báo cáo của tan huyết giảm bạch cầu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu ở bệnh nhân dùng thuốc ức chế TNF, trong đó có infliximab. Cần khuyên người bệnh thăm khám bác sĩ ngay lập tức nếu phát triển các dấu hiệu và triệu chứng của loạn tạo máu (ví dụ như sốt dai dẳng, bầm tím, chảy máu, xanh xao). Cần xem xét ngưng điều trị Remsima trên các bệnh nhân đã được xác định có bất thường về huyết học đáng kể.
Các tình trạng khác
Có rất ít kinh nghiệm lâm sàng về tính an toàn của điều trị infliximab trên các bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật, bao gồm phẫu thuật khớp. Cần xem xét thời gian bán thải của infliximab khi lên kế hoạch phẫu thuật. Khi chỉ định phẫu thuật cho người bệnh, cần đặc biệt kiểm soát nhiễm khuẩn và có các biện pháp cấp cứu thích hợp.
Trường hợp không đáp ứng trong điều trị bệnh Crohn có thể gây xơ chít hẹp cố định có thể cần phẫu thuật. Hiện các dữ liệu lâm sàng cho thấy infliximab không làm xấu đi hoặc gây chít hẹp.
Dùng thuốc trên các nhóm đối tượng đặc biệt
Bệnh nhân cao tuổi (>65 tuổi)
Tỷ lệ mắc các bệnh khuẩn trùng nghiêm trọng ở những bệnh nhân trên 65 tuổi được điều trị bằng infliximab lớn hơn các bệnh nhân dưới 65 tuổi. Một số người đã tử vong. Đặc biệt chú ý về nguy cơ nhiễm khuẩn khi điều trị cho bệnh nhân cao tuổi (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Bệnh nhân nhi
Nhiễm khuẩn:
Trong các nghiên cứu lâm sàng, nhiễm khuẩn đã được báo cáo trong một tỷ lệ cao hơn của bệnh nhi so với bệnh nhân người lớn (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Tiêm chủng
Khuyến cáo nên cho bệnh nhi tiêm chủng tất cả các loại cần thiết phù hợp với các khuyến cáo về tiêm chủng trước khi bắt đầu điều trị với infliximab.
U ác tính và các rối loạn tế bào lympho
Trường hợp u ác tính, một số tử vong, đã được báo cáo ở trẻ em, thanh thiếu niên và người trẻ tuổi (đến 22 tuổi) điều trị bằng thuốc ức chế TNF (bắt đầu điều trị ≤ 18 tuổi), bao gồm infliximab thông qua các báo cáo sau khi lưu hành thuốc. Khoảng một nửa các trường hợp là u lympho. Các trường hợp khác đại diện cho một loạt các khối u ác tính khác nhau và bao gồm cả u ác tính hiếm thường gắn liền với suy giảm miễn dịch. Không loại trừ nguy cơ tiến triển u ác tính ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế TNF.
Các trường hợp hiếm sau khi lưu hành thuốc, tình trạng u lympho tế bào T (HSTCL) đã được báo cáo trên những bệnh nhân điều trị bằng thuốc ức chế TNF trong đó có infliximab. Đây là loại hiếm của u lympho tế bào T, thể u rất mạnh và thường gây tử vong. Tất cả các trường hợp điều trị với infliximab đã xảy ra trên bệnh nhân bị bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng và phần lớn trong số đã được báo cáo là trẻ vị thành niên nam giới trẻ. Các bệnh nhân đã được điều trị với AZA hoặc 6-MP đồng thời hoặc ngay trước khi điều trị với infliximab. Cần thận trong cân nhắc nguy cơ tiềm ẩn với sự kết hợp của AZA hoặc 6-MP. Không loại trừ nguy cơ tiến triển u lympho tế bào T của gan-lách trên bệnh nhân được điều trị bằng Remsima (xem phần Liều lượng và cách dùng và Tác dụng ngoại ý).
Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc
Do phản ứng ngoại ý xảy ra sau khi dùng Remsima bao gồm chóng mặt, đau đầu, hoa mắt,..., cần thận trọng khi lái xe và vận hành máy móc.
Quá Liều
Hiện chưa có trường hợp quá liều nào được báo cáo. Khi sử dụng mức liều đơn lên tới 20 mg/kg thể trọng vẫn chưa có tác dụng gây độc.
Chống chỉ định
Infliximab không dùng cho các bệnh nhân được biết là nhạy cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc hoặc protein chuột và các tá dược.
Infliximab chống chỉ định cho bệnh nhân có nhiễm trùng nặng như lao, nhiễm khuẩn nặng, áp xe và nhiễm trùng cơ hội. Infliximab cũng chống chỉ định cho bệnh nhân suy tim mức độ vừa đến nặng (NYHA nhóm III/IV) (xem Tác dụng ngoại ý).
Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú
Phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ
Nữ giới có thể phải sử dụng biện pháp tránh thai thích hợp để ngăn ngừa mang thai và tiếp tục sử dụng ít nhất 6 tháng sau đợt điều trị cuối cùng với Remsima.
Phụ nữ có thai
Có khoảng 450 phụ nữ có thai điều trị với infliximab trong nghiên cứu hồi cứu, trong đó có một số lượng hạn chế (khoảng 230) tiếp xúc trong 3 tháng thai kỳ đầu tiên, không thấy tác dụng không mong muốn đáng kể trên thai nhi. Do sự ức chế của TNF-α, dùng infliximab trong khi mang thai có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bình thường ở trẻ sơ sinh. Trong một nghiên cứu độc tính phát triển tiến hành ở chuột sử dụng một kháng thể tương tự có chọn lọc ức chế hoạt động chức năng của chuột TNF-α, không có dấu hiệu của độc tính lên mẹ, phôi hay gây quái thai (xem phần An toàn tiền lâm sàng).
Các kinh nghiệm lâm sàng có sẵn là quá hạn chế để loại trừ rủi ro, và việc dùng infliximab do đó không khuyến khích trong khi mang thai.
Infliximab qua được nhau thai và đã được phát hiện lên đến 6 tháng trong huyết thanh của trẻ sinh ra từ những phụ nữ được điều trị bằng infliximab trong khi mang thai. Do đó, những trẻ này có thể tăng nguy cơ nhiễm khuẩn. Điều trị vaccine sống cho trẻ sơ sinh tiếp xúc với infliximab trong tử cung không được khuyến cáo cho 6 tháng sau infliximab truyền cuối cùng của người mẹ trong khi mang thai (xem phần Cảnh báo và Tương tác).
Phụ nữ đang cho con bú
Không rõ infliximab được bài tiết trong sữa mẹ hoặc được hấp thu toàn thân sau khi bú. Vì globulin miễn dịch của người bài tiết được qua sữa, không cho con bú sữa mẹ trong ít nhất 6 tháng sau khi điều trị Remsima.
Khả năng sinh sản
Có những dữ liệu tiền lâm sàng không đủ để rút ra kết luận về tác động của infliximab trên khả năng sinh sản và chức năng sinh sản nói chung (xem phần An toàn tiền lâm sàng).
Tương tác
Chưa có nghiên cứu về tương tác thuốc được thực hiện.
Trong viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến và bệnh nhân Crohn, có dấu hiệu cho thấy sử dụng đồng thời với methotrexate và các thuốc điều hòa miễn dịch khác làm giảm sự hình thành kháng thể chống lại infliximab và tăng nồng độ trong huyết tương của infliximab. Tuy nhiên, kết quả không chắc chắn do những hạn chế trong các phương pháp được sử dụng để định lượng infliximab huyết thanh và kháng thể chống lại infliximab.
Corticosteroid dường như không ảnh hưởng đến dược động học của infliximab ở mức độ có liên quan về mặt lâm sàng.
Sự kết hợp của Remsima với phương pháp điều trị sinh học khác được sử dụng để điều trị các điều kiện tương tự như Remsima, bao gồm anakinra và abatacept, không được khuyến cáo (xem phần Cảnh báo).
Khuyến cáo không điều trị đồng thời Remsima với vaccine sống (xem phần Cảnh báo).
Tương kỵ
Do không có đầy đủ các nghiên cứu tương kỵ, không nên trộn lẫn thuốc với bất cứ thuốc khác.
Tác dụng ngoại ý
Tóm tắt về tính an toàn
Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên là phản ứng ngoại ý (ADR) phổ biến nhất được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng, xảy ra ở 25,3% bệnh nhân được điều trị bằng infliximab so với 16,5% số bệnh nhân kiểm soát. Các ADR nghiêm trọng nhất liên quan đến việc sử dụng các thuốc chẹn TNF đã được báo cáo cho infliximab bao gồm HBV tái hoạt động, CHF, nhiễm trùng nặng (bao gồm cả nhiễm trùng huyết, nhiễm khuẩn cơ hội và lao), bệnh huyết thanh (phản ứng quá mẫn chậm), phản ứng trên huyết học, hội chứng lupus ban đỏ hệ thống/hội chứng giống lupus, hội chứng rối loạn hủy myelin, các phản ứng trên gan, ung thư hạch, HSTCL, áp xe ruột hoặc quanh hậu môn (bệnh Crohn), và các phản ứng nghiêm trọng liên quan đến việc truyền thuốc (xem phần Cảnh báo).
Bảng các tác dụng bất lợi
Bảng 9 liệt kê các ADR dựa trên kinh nghiệm từ các nghiên cứu lâm sàng cũng như các phản ứng bất lợi, một số gây tử vong, được báo cáo trong khi lưu hành thuốc. Với từng hệ cơ quan, phản ứng ngoại ý được phân loại dựa trên tần số gặp như sau: rất hay gặp (>1/10); thường gặp (>1/100 đến <1/10); ít gặp (>1/1.000 đến <1/100); hiếm gặp (>1/10.000) đến <1/1.000); rất hiếm gặp (<1/10.000); không rõ (không ước lượng được dựa trên dữ liệu có sẵn). Với mỗi nhóm tần số gặp, phản ứng ngoại ý của thuốc được liệt kê theo thứ tự tăng dần mức độ nghiêm trọng.
Phản ứng liên quan đến truyền
Phản ứng liên quan đến tiêm truyền đã được xác định trong các nghiên cứu lâm sàng là bất kỳ tác dụng phụ xảy ra trong quá trình truyền hoặc trong vòng 1 giờ sau khi truyền dịch. Trong giai đoạn nghiên cứu lâm sàng pha III, 18% bệnh nhân được điều trị bằng infliximab so với 5% bệnh nhân dùng giả dược trải qua phản ứng liên quan đến tiêm truyền. Nhìn chung, tỷ lệ bệnh nhân infliximab đơn trị liệu có phản ứng liên quan đến việc tiêm truyền cao hơn so với những bệnh nhân dùng infliximab đồng thời với các chất điều hòa miễn dịch. Khoảng 3% bệnh nhân phải ngưng điều trị do các phản ứng truyền và tất cả các bệnh nhân đều phục hồi. Bệnh nhân được điều trị bằng infliximab có phản ứng tiêm truyền trong giai đoạn điều trị cảm ứng, qua tuần 6, 27% bị các phản ứng truyền trong giai đoạn cảm ứng, 9% bị các phản ứng truyền trong giai đoạn duy trì, từ tuần 7 đến tuần 54. Trong số bệnh nhân không có phản ứng truyền trong giai đoạn cảm ứng, 9% bị các phản ứng truyền trong giai đoạn duy trì.
Trong một nghiên cứu lâm sàng của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (ASPIRE), được truyền trong hơn 2 giờ cho 3 lần truyền đầu tiên. Thời gian truyền tiếp theo có thể được rút ngắn xuống còn không ít hơn 40 phút ở những bệnh nhân không có phản ứng truyền nghiêm trọng. Trong thử nghiệm này, sáu mươi sáu phần trăm bệnh nhân (686/1040) đã nhận được ít nhất một lần truyền rút ngắn xuống dưới 90 phút và 44% bệnh nhân (454/1040) đã nhận được ít nhất một lần truyền rút ngắn xuống dưới 60 phút. Trong số bệnh nhân được điều trị bằng infliximab mà nhận được ít nhất một lần truyền rút ngắn, các phản ứng liên quan đến truyền xảy ra ở 15% bệnh nhân và các phản ứng truyền nghiêm trọng xảy ra ở 0,4% số bệnh nhân.
Trong một nghiên cứu lâm sàng của bệnh nhân bị bệnh Crohn (SONIC), phản ứng truyền liên quan xảy ra ở 16,6% (27/163) số bệnh nhân infliximab đơn trị liệu, 5% (9/179) số bệnh nhân dùng infliximab kết hợp với AZA, và 5,6% (9/161) số bệnh nhân dùng AZA đơn trị liệu. Một phản ứng truyền nghiêm trọng (<1%) xảy ra ở bệnh nhân dùng infliximab đơn trị liệu.
Theo các báo cáo trong quá trình lưu hành, các trường hợp phản ứng kiểu phản vệ bao gồm phù nề thanh quản/họng, co thắt phế quản nặng và động kinh, có liên quan đến điều trị với infliximab. Trường hợp cực kỳ hiếm gặp là mất thị lực thoáng qua và thiếu máu cục bộ/nhồi máu cơ tim xảy ra trong hoặc trong vòng 2 giờ truyền infliximab cũng đã được báo cáo (xem phần Cảnh báo).
Phản ứng sau khi tái điều trị với infliximab
Một nghiên cứu lâm sàng ở những bệnh nhân bệnh vảy nến vừa đến nặng được thiết lập để đánh giá hiệu quả và an toàn của điều trị duy trì dài hạn so với điều trị nhắc lại trong điều trị cảm ứng với infliximab (tối đa là bốn lần truyền tại 0, 2, 6 và 14 tuần) sau bùng phát bệnh. Bệnh nhân không dùng đồng thời với chất ức chế miễn dịch nào. Trong tái điều trị, 4% (8/219) số bệnh nhân gặp một phản ứng truyền nghiêm trọng so với <1% (1/222) trong điều trị duy trì. Phần lớn các phản ứng truyền nghiêm trọng xảy ra trong lần truyền thứ hai ở tuần 2. Khoảng cách giữa các liều duy trì cuối cùng và liều tái cảm ứng đầu tiên dao động trong khoảng 35-231 ngày. Các triệu chứng bao gồm, nhưng không giới hạn trong các triệu chứng sau: khó thở, nổi mề đay, phù mặt và hạ huyết áp. Trong tất cả trường hợp, ngưng điều trị với infliximab và/hoặc điều trị triệu chứng thích hợp.
Phản ứng quá mẫn chậm
Trong các nghiên cứu lâm sàng, ít gặp các phản ứng quá mẫn chậm và đã xảy ra sau khi không dùng infliximab trong khoảng thời gian dưới 1 năm. Trong các nghiên cứu bệnh vảy nến, phản ứng quá mẫn chậm xuất hiện rất sớm trong quá trình điều trị. Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm đau cơ và/hoặc khớp với sốt và/hoặc phát ban, với một số bệnh nhân có ngứa, phù nề mặt, tay hoặc môi, khó nuốt, nổi mề đay, đau họng và đau đầu.
Còn thiếu số liệu về tỷ lệ phản ứng quá mẫn chậm sau khoảng thời gian không điều trị với infliximab trong hơn 1 năm nhưng một số ít thông tin từ các nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy tăng nguy cơ bị quá mẫn chậm so với sự gia tăng khoảng thời gian không điều trị infliximab (xem phần Cảnh báo).
Trong một nghiên cứu lâm sàng 1 năm với truyền lặp lại ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn (nghiên cứu ACCENT I), tỷ lệ phản ứng giống bệnh huyết thanh là 2,4%.
Miễn dịch
Bệnh nhân có kháng thể với infliximab có nhiều khả năng phát triển các phản ứng phụ liên quan đến tiêm truyền (khoảng 2-3 lần). Sử dụng đồng thời các tác nhân ức chế miễn dịch làm giảm tần suất các phản ứng liên quan đến tiêm truyền.
Trong các nghiên cứu lâm sàng sử dụng liều infliximab duy nhất và các liều khác ngay từ 1 đến 20 mg/kg, các kháng thể với infliximab đã được phát hiện trong 14% bệnh nhân điều trị với chất ức chế miễn dịch, và ở 24% bệnh nhân không điều trị với chất ức chế miễn dịch. Ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đã được lặp đi lặp lại phác đồ liều điều trị khuyến cáo với methotrexate, 8% bệnh nhân có kháng thể với infliximab. Trên bệnh nhân viêm khớp vảy nến dùng liều 5 mg/kg có và không có methotrexate, các kháng thể xuất hiện trên 15% bệnh nhân (kháng thể xảy ra ở 4% bệnh nhân dùng methotrexate và trong 26% bệnh nhân không dùng methotrexate lúc ban đầu). Ở những bệnh nhân bệnh Crohn điều trị duy trì, các kháng thể với infliximab xuất hiện trong 3,3% số bệnh nhân dùng chất ức chế miễn dịch và trong 13,3% bệnh nhân không dùng. Tỷ lệ kháng thể cao gấp 2-3 lần so với bệnh nhân điều trị từng giai đoạn. Do những hạn chế về phương pháp, một thử nghiệm âm tính không loại trừ sự hiện diện của kháng thể kháng infliximab. Một số bệnh nhân chuẩn độ thấy kháng thể với infliximab cao có cho thấy bằng chứng giảm hiệu quả. Ở những bệnh nhân bệnh vảy nến điều trị duy trì bằng infliximab trong trường hợp không điều trị đồng thời với các chất điều hòa miễn dịch, khoảng 28% xuất hiện kháng thể với infliximab (xem mục xem mục Cảnh báo).
Nhiễm khuẩn
Bệnh lao, nhiễm khuẩn, bao gồm cả nhiễm trùng huyết và viêm phổi, nhiễm nấm, virus, và các nhiễm khuẩn cơ hội xâm lấn đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị với infliximab. Một số các bệnh nhiễm khuẩn dẫn đến tử vong; thường xuyên nhất được báo cáo nhiễm trùng cơ hội với tỷ lệ tử vong >5% bao gồm nhiễm các chủng pneumocystosis, candida, bệnh listeriosis và aspergillo (xem phần Cảnh báo).
Trong các nghiên cứu lâm sàng 36% bệnh nhân được điều trị bằng infliximab phải điều trị các bệnh nhiễm khuẩn so với 25% bệnh nhân dùng placebo.
Trong các nghiên cứu lâm sàng viêm khớp dạng thấp, tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn nghiêm trọng bao gồm viêm phổi cao hơn ở bệnh nhân điều trị infliximab đồng thời với methotrexate so với methotrexate đơn độc là ở liều 6 mg/kg hoặc cao hơn (xem phần Cảnh báo).
Trong các báo cáo thuốc sau lưu hành, các nhiễm khuẩn hầu hết là các tác dụng bất lợi nghiêm trọng. Một số trường hợp đã gây tử vong. Gần 50% số trường hợp tử vong có liên quan đến nhiễm khuẩn. Trường hợp lao phổi, đôi khi gây tử vong trong đó có bệnh lao ngoài phổi và lao hạt kê đã được báo cáo (xem phần Cảnh báo).
Khối u ác tính và rối loạn lympho
Trong các nghiên cứu lâm sàng với infliximab trong đó 5780 bệnh nhân đã được điều trị, số năm điều trị là 5494, 5 trường hợp u lympho và 26 khối u ác tính không u lympho đã được phát hiện so với không u lympho và 1 phi u lympho ác tính trên 1600 bệnh nhân được điều trị bằng giả dược (đại diện cho 941 bệnh nhân-năm).
Trong nghiên cứu lâm sàng theo dõi an toàn với infliximab lâu dài lên đến 5 năm, đại diện cho 6234 bệnh nhân - năm (3210 bệnh nhân), 5 trường hợp ung thư hạch và 38 trường hợp u ác tính không u bạch huyết đã được báo cáo.
Trường hợp u ác tính, bao gồm cả ung thư hạch, cũng đã được báo cáo trong các báo cáo sau tiếp thị (xem phần Cảnh báo).
Trong một nghiên cứu lâm sàng thăm dò trên bệnh nhân COPD trung bình đến nặng hoặc là người hút thuốc hiện tại hoặc đã từng hút, 157 bệnh nhân người lớn được điều trị bằng infliximab với liều tương tự như những người sử dụng trong viêm khớp dạng thấp và bệnh Crohn. 9 trong số những bệnh nhân này phát triển khối u ác tính, trong đó có 1 khối ung thư hạch. Thời gian trung bình theo dõi là 0,8 năm (tỷ lệ 5,7% [2,65%-10,6%, độ tin cậy 95%]. Có 1 báo cáo bệnh ác tính trong số 77 bệnh nhân nhóm chứng (trung bình thời gian theo dõi 0,8 năm; Tỷ lệ 1,3% [0,03%-7,0%, độ tin cậy 95%]). Phần lớn các khối u ác tính phát triển trong phổi hoặc ở đầu và cổ.
Ngoài ra, các trường hợp báo cáo thuốc sau lưu hành hiếm hoi cho thấy Ung thư hạch tế bào lympho T gan-lách đã được báo cáo ở những bệnh nhân bị bệnh Crohn và viêm loét đại tràng được điều trị bằng infliximab, phần lớn trong số đó là nam giới trẻ tuổi hoặc trẻ vị thành niên (xem phần Cảnh báo).
Suy tim
Trong một nghiên cứu phase II nhằm đánh giá infliximab trong suy tim sung huyết (CHF), tỷ lệ tử vong cao hơn do suy tim ngày càng xấu đi đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị bằng infliximab, đặc biệt là những người điều trị với liều cao hơn 10 mg/kg (tức là hai lần tối đa liều đã được phê duyệt). Trong nghiên cứu này, 150 bệnh nhân suy tim NYHA III-IV CHF (tâm thất trái phân suất tống máu <35%) được điều trị bằng 3 lần truyền infliximab 5mg/kg, 10 mg/kg, hoặc giả dược trong 6 tuần. Ở thời điểm 38 tuần, 9/101 bệnh nhân được điều trị bằng infliximab (2 bệnh nhân với mức liều 5 mg/kg và 7 bệnh nhân ở mức 10 mg/kg) tử vong so với 1 ca tử vong trong số 49 bệnh nhân dùng giả dược.
Đã có báo cáo sau lưu hành thuốc về tình trạng suy tim ngày càng xấu, có và không có yếu tố nghẽn mạch ở bệnh nhân dùng infliximab. Hiếm có báo cáo sau tiếp thị cho thấy tình trạng suy tim phát triển mới, bao gồm suy tim ở những bệnh nhân không có bệnh tim mạch từ trước. Một số bệnh nhân trong nhóm này dưới 50 tuổi.
Biến cố gan mật
Trong các nghiên cứu lâm sàng, mức tăng men gan nhẹ hoặc trung bình đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị với infliximab mà không gây tổn thương gan nặng. Mức tăng của ALT >5 lần giới hạn trên của giá trị bình thường (ULN) đã được quan sát (xem bảng 10). Mức tăng men aminotransferase đã quan sát thấy (ALT phổ biến hơn AST) trong một tỷ lệ lớn hơn bệnh nhân điều trị infliximab trong giai đoạn kiểm soát, cả khi infliximab điều trị đơn trị liệu cũng như khi sử dụng kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác. Hầu hết bất thường aminotransferase là tạm thời, song một số ít bệnh nhân đã tăng men gan trong thời gian dài hơn. Nhìn chung, bệnh nhân tăng men ALT và AST cao không có biểu hiện triệu chứng, và có thể bất thường giảm hoặc trở lại bình thường sau khi tiếp tục hoặc ngưng infliximab, hoặc đổi thuốc điều trị đồng thời. Trong các báo cáo sau lưu hành thuốc, rất hiếm thấy tình trạng vàng da và viêm gan, một số dấu hiệu của viêm gan tự miễn, đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với infliximab (xem phần Cảnh báo).
Kháng thể kháng nhân (ANA)/Kháng DNA đôi (dsDNA)
Khoảng một nửa số bệnh nhân được điều trị bằng infliximab trong các nghiên cứu lâm sàng mà có âm tính với ANA lúc đầu sau đó có ANA dương tính trong nghiên cứu so sánh với khoảng một phần năm số bệnh nhân được điều trị bằng giả dược. Kháng thể kháng dsDNA chỉ được phát hiện trong khoảng 17% bệnh nhân được điều trị bằng infliximab so với 0% bệnh nhân dùng placebo. Ở giai đoạn đánh giá cuối cùng, 57% bệnh nhân được điều trị bằng infliximab vẫn cho kết quả kháng dsDNA dương tính. Các báo cáo của bệnh và hội chứng kiểu lupus đã có song vẫn chưa phổ biến (xem phần Cảnh báo).
Bệnh nhân nhi
Bệnh nhân vị thành niên viêm khớp dạng thấp
Infliximab đã được nghiên cứu trong một nghiên cứu lâm sàng ở 120 bệnh nhân (độ tuổi: 4-17 tuổi) với viêm khớp dạng thấp dạng hoạt động với methotrexate. Bệnh nhân dùng chế độ liều cảm ứng 3 hoặc 6 mg/kg infliximab 3 liều (tương ứng tuần 0, 2, 6 hoặc tuần 14, 16, 20) tiếp theo là điều trị duy trì mỗi 8 tuần, kết hợp với methotrexate.
Phản ứng tiêm truyền
Phản ứng tiêm truyền xảy ra ở 35% bệnh nhân thiếu niên viêm khớp dạng thấp dùng liều 3 mg/kg so với 17,5% số bệnh nhân dùng liều 6 mg/kg. Trong nhóm điều trị với 3 mg/kg infliximab, 4 trong số 60 bệnh nhân có phản ứng truyền nghiêm trọng và 3 bệnh nhân báo cáo phản ứng kiểu phản vệ (2 trong số đó là những phản ứng truyền nghiêm trọng). Trong nhóm dùng 6 mg/kg, 2 trong số 57 bệnh nhân có phản ứng truyền nghiêm trọng, một trong số đó có thể bị phản ứng phản vệ (xem phần Cảnh báo).
Miễn dịch
Kháng thể kháng infliximab phát triển trong 38% bệnh nhân điều trị mức liều 3 mg/kg so với 12% bệnh nhân điều trị liều 6 mg/kg. Nồng độ kháng thể cao hơn một cách đáng kể ở nhóm điều trị liều 3 mg/kg so với 6 mg/kg.
Nhiễm khuẩn
Nhiễm khuẩn xảy ra ở 68% trẻ em (41/60) dùng 3 mg/kg so với 52 tuần, 65% trẻ em (37/57) dùng infliximab 6 mg/kg trong 38 tuần so với 47% trẻ em (28/60) dùng giả dược trong 14 tuần (xem phần Cảnh báo).
Bệnh nhân bệnh nhi Crohn
Các tác dụng phụ sau đây đã được báo cáo phổ biến hơn ở trẻ em bị bệnh Crohn trong nghiên cứu REACH (xem phần Dược lực học) hơn ở những bệnh nhân người lớn bị bệnh Crohn: thiếu máu (10,7%), có máu trong phân (9,7%), giảm bạch cầu (8,7%), đỏ bừng (8,7%), nhiễm virus (7,8%), giảm bạch cầu (6,8%), gãy xương (6,8%), nhiễm vi khuẩn (5,8%), và phản ứng dị ứng trên đường hô hấp (5,8%). Các xem xét đặc biệt khác sẽ được thảo luận dưới đây.
Phản ứng liên quan đến truyền
Trong nghiên cứu REACH, 17,5% bệnh nhân ngẫu nhiên trải qua 1 hoặc nhiều hơn các phản ứng truyền. Không có phản ứng truyền nghiêm trọng, và 2 đối tượng trong nghiên cứu REACH có phản ứng phản vệ nhưng không nghiêm trọng.
Miễn dịch
Kháng thể kháng infliximab đã được phát hiện trong 3 bệnh nhi (2,9%).
Nhiễm khuẩn
Trong nghiên cứu REACH, nhiễm khuẩn đã được báo cáo trong 56,3% đối tượng nghiên cứu ngẫu nhiên được điều trị bằng infliximab. Nhiễm khuẩn đã được báo cáo thường xuyên hơn cho các đối tượng điều trị ở tuần 8 so với tuần 12 (tương ứng 73,6% và 38,0%), trong khi nhiễm khuẩn nặng đã được báo cáo cho 3 đối tượng trong tuần 8 và 4 đối tượng nghiên cứu nằm trong nhóm điều trị duy trì ở tuần 12. Các bệnh nhiễm khuẩn thường gặp nhất là viêm nhiễm đường hô hấp trên và viêm họng, và nhiễm khuẩn nghiêm trọng thường gặp nhất là áp xe. Ba trường hợp viêm phổi (1 trường hợp nghiêm trọng) và 2 trường hợp nhiễm Herpes (cả hai đều không nghiêm trọng) đã được báo cáo.
Bệnh nhân nhi viêm loét đại tràng
Nhìn chung, các phản ứng phụ được báo cáo trong các thử nghiệm ở trẻ em loét đại tràng (C0168T72) và viêm loét đại tràng ở người lớn (ACT 1 và ACT 2) là thống nhất. Trong nghiên cứu C0168T72, các phản ứng phụ thường gặp nhất là nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm họng, đau bụng, sốt và đau đầu. Các tác dụng phụ phổ biến nhất do tình trạng xấu đi của viêm loét đại tràng, tỷ lệ các tác dụng phụ này cao hơn ở bệnh nhân dùng phác đồ 12 tuần so với phác đồ 8 tuần.
Phản ứng liên quan đến truyền
Nhìn chung, 8 trong số 60 bệnh nhân điều trị (13,3%) có một hoặc nhiều phản ứng liên quan truyền dịch, trong đó có 4/22 bệnh nhân (18,2%) trong liệu pháp 8 tuần và 3/23 (13,0%) trong nhóm điều trị duy trì 12 tuần. Không có phản ứng liên quan đến đường truyền nghiêm trọng đã được báo cáo. Tất cả các phản ứng đều ở mức nhẹ hay trung bình.
Miễn dịch
Kháng thể đề kháng với infliximab được tìm thấy trên 4 bệnh nhân (chiếm 7,7%) đã trải qua 54 tuần điều trị.
Nhiễm khuẩn
Nhiễm trùng được báo cáo trên 31/60 số bệnh nhân (chiếm 51,7%) trong nghiên cứu C0168T72 và 22/60 bệnh nhân (36,7%) cần phải điều trị kháng sinh đường uống hoặc tiêm truyền. Tỷ lệ các bệnh nhân nhiễm trùng trong nghiên cứu C0168T72 tương tự như trong nghiên cứu về bệnh Crohn ở trẻ em (REACH) nhưng cao hơn so với trong nghiên cứu bệnh viêm loét tá tràng ở người lớn (ACT 1 và ACT 2). Tần suất tình trạng nhiễm khuẩn trong nghiên cứu C0168T72 là 13/22 (chiếm 59%) trong nhóm điều trị duy trì 8 tuần và 14/23 (chiếm 60,9%) trong nhóm điều trị duy trì 12 tuần. Các nhiễm khuẩn đường hô hấp trên (7/60 trường hợp chiếm 12%) và viêm phế quản (5/60 trường hợp chiếm 8%) là các báo cáo phổ biến nhất về nhiễm khuẩn đường hô hấp. Các nhiễm khuẩn nghiêm trọng được báo cáo trên tổng số 12% người bệnh.
Trong nghiên cứu này, có một nhóm bệnh nhân độ tuổi từ 12 – 17 có tỷ lệ nhiễm khuẩn cao hơn nhóm bệnh nhân từ 6 - 11 tuổi (tương ứng 45/60 (75%) và 15/60 (25%). Trong khi số bệnh nhân ở mỗi phân nhóm là quá nhỏ để có bất cứ kết luận chắc chắn nào về ảnh hưởng của độ tuổi lên tính an toàn của sản phẩm, tỉ lệ bệnh nhân gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng và phải dừng điều trị do các tác dụng phụ cao hơn ở nhóm ít tuổi hơn. Do tỉ lệ bệnh nhân nhiễm khuẩn ở nhóm ít tuổi cũng cao hơn, nên tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng được coi là tương đương giữa 2 nhóm. Các tỷ lệ các tác dụng phụ và tác dụng liên quan đến truyền tổng quát là tương đương gữa các nhóm từ 6 - 11 tuổi và 12 – 17 tuổi.
Dữ liệu báo cáo sau khi lưu hành
Các phản ứng ngoại ý trong quá trình lưu hành infliximab đã gặp phải ở trẻ em bao gồm u ác tính, bao gồm ung thư hạch tế bào lympho T gan-lách, bất thường nồng độ enzym gan thoáng qua, hội chứng giống lupus, và tự kháng thể dương tính (xem mục Cảnh báo và Tác dụng ngoại ý).
Các thông tin khác về nhóm bệnh nhân đặc biệt:
Người cao tuổi (> 65 tuổi): Trong các nghiên cứu lâm sàng ở bệnh viêm khớp dạng thấp dùng infliximab kết hợp methotrexate, tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng ở bệnh nhân 65 tuổi trở lên (11,3%) cao hơn ở bệnh nhân dưới 65 tuổi (4,6%). Ở bệnh nhân điều trị với methotrexate đơn độc, tỉ lệ nhiễm khuẩn nặng ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên là 5,2% so với 2,7% ở bệnh nhân dưới 65 tuổi.
Báo cáo các phản ứng ngoại ý phát sinh:
Việc báo cáo các phản ứng ngoại ý phát sinh là rất quan trọng. Điều này cho phép tiếp tục theo dõi yếu tố lợi ích/nguy cơ của sản phẩm. Yêu cầu các cán bộ y tế báo cáo khi có bất kỳ phản ứng ngoại ý xảy ra thông qua hệ thống báo cáo của quốc gia.
Bảo quản
Bảo quản trong tủ lạnh (2-8°C). Không làm đông lạnh.
Đặc tính hóa lý trong nghiên cứu độ ổn định khi sử dụng của dung dịch thuốc sau hoàn nguyên đã chứng tỏ bền vững trong 24 giờ ở nhiệt độ 25°C. Về mặt vi sinh vật học, nên dùng thuốc ngay sau khi pha hoặc không quá 3 giờ sau khi hoàn nguyên và pha loãng. Nếu không sử dụng ngay, thời gian lưu dung dịch thuốc và điều kiện trước khi dùng sẽ thuộc trách nhiệm của người dùng và không được để quá 24 giờ ở nhiệt độ 2-8°C.
Phân loại ATC
L04AB02 - infliximab
Trình bày/Đóng gói
Bột đông khô pha tiêm: hộp 1 lọ.
- Abacavir
- Abernil
- Abiiogran
- Acarbose
- ACC
- Acebutolol
- Acenocoumarol
- Acetate Ringer's
- Acetazolamide
- Acetylcystein
- Acetylsalicylic acid
- Aciclovir
- Acid acetylsalicylic
- Acid aminocaproic
- Acid ascorbic
- Acid boric
- Acid chenodeoxycholic
- Acid ethacrynic
- Acid folic
- Acid fusidic
- Acid iopanoic
- Acid ioxaglic
- Acid nalidixic
- Acid pantothenic
- Acid para-aminobenzoic
- Acid salicylic
- Acid tranexamic
- Acid valproic
- Acid zoledronic
- Acitretin
- Aclasta
- Aclon
- Actapulgite
- Actelsar
- Actelsar HCT
- Actemra
- Actilyse
- Acular
- Acupan
- Acuvail
- Acyclovir STADA
- Acyclovir STADA Cream
- Adalat
- Adenosin
- Adenosin Ebewe
- Adipiodon
- Advagraf
- Aerius
- Afinitor
- Agicarvir
- Agifovir-E
- Agilosart
- Agilosart-H
- Agimepzol
- Agimosarid
- Agimstan
- Agimstan-H
- Agiremid
- Agivastar
- Aibezym
- Air-X
- Alaxan
- Albendazol
- Albiomin
- Albumin
- Albumin người Grifols 20%
- Albuminar
- AlbuRx
- Albutein
- Alcuronium chloride
- Aldesleukin
- Alendronat
- Alertin
- Alfa-Lipogamma 600 Oral
- Alfuzosin hydrochlorid
- Algotra
- Alimemazin
- Alimta
- Allipem
- Allopurinol
- Allopurinol STADA
- Aloxi
- Alprazolam
- Alpha Chymotrypsin
- Alpha tocopherol
- Alphachymotrypsin Glomed
- Alphagan-P
- Aluvia
- Alzental
- Amaryl
- Ambroco
- Ambroxol
- Amcinol-Paste
- Amigold
- Amikacin
- Aminocaproic acid
- Aminoleban
- Aminoleban Oral
- Aminosteril N-Hepa
- Amiparen
- Amitriptyline
- Amiyu
- Amlodipine
- Amlor
- Amoxicillin
- Amoxicillin & clavulanate
- Ampicillin
- Amquitaz
- Anaferon for children
- Anargil
- Anaropin
- Andriol Testocaps
- Anepzil
- Anyfen
- Apaisac
- Apidra SoloStar
- Apitim 5
- Aprovel
- Aquaphil
- Arcalion
- Arcoxia
- Aricept Evess
- Arimidex
- Arnetine
- Artrodar
- A-Scabs
- Ascorbic acid
- Asperlican/Candinazol
- Aspilets EC
- Aspirin
- Asthmatin
- Atelec
- Atocib 120
- Atocib 90
- Atosiban PharmIdea
- Atozet
- Attapulgite
- Atussin
- Atropin
- Augbactam
- Augmentin Sachet
- Augmentin SR
- Augmentin Tablets
- Augmex
- Avamys
- Avastin
- Avelox Dịch truyền
- Avelox Viên nén
- Avodart
- Axcel Cefaclor-125 Suspension
- Axcel Cetirizine Syrup
- Axcel Chlorpheniramine
- Axcel Dexchlorpheniramine
- Axcel Dicyclomine-S Syrup
- Axcel Diphenhydramine Paediatric Syrup
- Axcel Erythromycin ES
- Axcel Eviline
- Axcel Fungicort Cream
- Axcel Fusidic acid Cream
- Axcel Fusidic acid-B Cream
- Axcel Hydrocortisone Cream
- Axcel Lignocaine 2% Sterile Gel
- Axcel Loratadine
- Axcel Miconazole Cream
- Axcel Paracetamol
- Axcel Urea Cream
- Axitan
- Azenmarol
- Azicine
- Aziphar
- Azithromycin